[6] [dansohungnguyen] [slider-top-big] []
You are here: Home / , , NIỀM VUI ĐẾN VỚI NGƯỜI LÀM CÔNG TÁC DÂN SỐ

NIỀM VUI ĐẾN VỚI NGƯỜI LÀM CÔNG TÁC DÂN SỐ

Ngày 04/10/2017, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam bắt đầu họp Hội nghị lần thứ sáu để thảo luận, cho ý kiến về:
1,Tình hình kinh tế - xã hội và tài chính - ngân sách năm 2017, dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán tài chính - ngân sách năm 2018;
2, Tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc, nâng cao sức khỏe nhân dân và công tác dân số trong tình hình mới;
3, Tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập;
4, Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; và tiến hành một số công việc quan trọng khác.
Tiến sỹ Dương Đình Chỉnh, Phó Giám đốc Sở Y tế Nghệ An khai mạc 
đêm giao lưu truyền thông tại Hưng Nguyên
Ảnh: Nga Văn






Có thể nói từ sau Nghị quyết số 04-NQ/HNTW ngày 14/01/1993 của hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành TW Đảng khóa VII về chính sách dân số và KHHGĐ, với các quan điểm cơ bản vẫn còn xuyên suốt cho đến ngày nay: 
 a- Công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình là một bộ phận quan trọng của chiến lược phát triển đất nước, là một trong những vấn đề kinh tế - xã hội hàng đầu của nước ta, là một yếu tố cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình và của toàn xã hội.
b- Giải pháp cơ bản để thực hiện công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình là vận động, tuyên truyền và giáo dục gắn liền với đưa dịch vụ kế hoạch hóa gia đình đến tận người dân; có chính sách mạng lại lợi ích trực tiếp cho người chấp nhận gia đình ít con, tạo động lực thúc đẩy phong trào quàn chúng thực hiện kế hoạch hóa gia đình.
c- Đầu tư cho công tác dân số kế hoạch hóa gia đình là đầu tư mang lại hiệu quả kinh tế trực tiếp rất cao. nhà nước cần tăng mức chi phí ngân sách cho công tác dân số kế hoạch hóa gia đình, đồng thời động viên sự đóng góp của cộng đồng và tranh thủ sự viện trợ của quốc tế.
d- Huy động lực lượng toàn xã hội tham gia công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình, đồng thời phải có bộ máy chuyên trách đủ mạnh quản lý theo chương trình mục tiêu, bảo đảm cho các nguồn lực nói trên đuwocj sử dụng có hiệu quả đến tận người dân.
đ- Để đạt được mục tiêu trong thời gian tương đối ngắn, điều có ý nghĩa quyết định là Đảng và chính quyền các cấp phải lãnh đạo và chỉ đạo tổ chức thực hiện công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình theo chương trình.
Sau đó, mãi đến ngày 22/3/2005 của Bộ chính trị lại có Nghị quyết số 47-NQ/TW, về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình để tiếp tục triển khai thực hiện.
Trước tình hình dân số hiện nay như đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nói về công tác dân số trong tình hình mới :
“ Đây là vấn đề rất lớn và khó, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, liên quan đến việc bảo vệ, phát triển giống nòi, quốc gia, dân tộc. Trong 25 năm qua, cả nước ta đã kiên trì, kiên quyết thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình, mỗi cặp vợ chồng chỉ có 2 con theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII. Bên cạnh những kết quả, thành tựu đã đạt được vẫn còn không ít những hạn chế, yếu kém, phát sinh những vấn đề mới cần kịp thời có định hướng xử lý. Ví dụ: Mức sinh giữa các vùng còn có sự chênh lệch đáng kể.
Tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh tăng nhanh, đã ở mức nghiêm trọng và ngày càng lan rộng. Nước ta đang bước vào thời kỳ "già hóa dân số", đứng trước nguy cơ "chưa giàu đã già", bỏ lỡ cơ hội của "thời kỳ dân số vàng". Quản lý dân số, quản lý di cư, nhất là di cư tự do, còn nhiều bất cập. Chất lượng dân số, nhất là chiều cao và thể lực chậm được cải thiện. Tình trạng tảo hôn, kết hôn cận huyết thống còn xảy ra ở một số vùng dân tộc ít người; tỉ lệ người bị khuyết tật trong dân số còn cao...
Trên cơ sở thống nhất nhận định về tình hình, xu thế phát triển trong thời gian tới, đề nghị Trung ương đi sâu phân tích nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém trên đây, rút ra những bài học kinh nghiệm thành công cũng như chưa thành công của công tác dân số ở nước ta và tham khảo kinh nghiệm của thế giới. Từ đó, đề ra quan điểm chỉ đạo, mục tiêu và nhiệm vụ, giải pháp phù hợp để nắm bắt thời cơ thuận lợi, vượt qua khó khăn, thách thức, làm tốt hơn nữa công tác dân số trong trong tình hình mới. Phải chăng trong thời gian tới nước ta cần chuyển trọng tâm từ chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình sang dân số và phát triển? Nội hàm cụ thể của các khái niệm đó là gì? Ý nghĩa thực tiễn của nó ra sao? Tập trung phân tích những căn cứ và sự cần thiết, đúng đắn của việc chuyển trọng tâm từ giảm tăng dân số thông qua việc thực hiện triệt để, đồng loạt chính sách mỗi cặp vợ chồng chỉ có hai con sang kiểm soát quy mô, nâng cao chất lượng dân số bằng chính sách duy trì mức sinh thay thế.
Chú ý tính khả thi, phù hợp của mục tiêu lựa chọn và các chính sách, biện pháp đã đề ra. Đặc biệt là phương án lựa chọn về quy mô dân số và các chính sách bảo đảm giải quyết toàn diện, đồng bộ các vấn đề về dân số như: Duy trì mức sinh thay thế; đưa tỉ lệ giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên; tận dụng tốt nhất điều kiện cơ cấu dân số vàng; thích ứng với già hóa dân số; quản lý tốt di cư, nhất là di cư tự do; nâng cao chất lượng dân số...”
Với cách đặt vấn đề trong toàn văn bài phát biểu quan trọng khai mạc Hội nghị của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng; Bộ Chính trị đã phân công đồng chí Phạm Bình Minh, Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao đọc Tờ trình của Bộ Chính trị về Đề án công tác dân số trong tình hình mới.
Chắc chắn Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, lần thứ 6 sẽ có Nghị quyết chuyên đề về công tác Y tế - dân số; mở ra cho những người làm công tác dân số những thuận lợi mới trong quá trình thực thi nhiệm vụ của mình./.

KimBang-TTDS