Việt Nam là một trong những nước có tốc độ già hóa dân số
nhanh nhất thế giới. Chất lượng dân số đối mặt với nhiều thách thức. Bộ Y tế đã
đưa ra 3 phương án điều chỉnh mức sinh hiện nay. Dưới góc độ nhận thức của bản
thân có đôi điều suy nghĩ về từng phương án:
Về phương án 1: Duy trì mức sinh như hiện nay càng lâu càng
tốt. Theo đó, sẽ vận động mỗi cặp vợ chồng sinh 2 con mà không quy định thành
luật với chính sách linh hoạt.
Những địa phương
đang sinh nhiều con (hơn 3 con) thì vận động sinh ít đi để có điều kiện nuôi
dạy tốt hơn. Ngược lại, những nơi có tỉ lệ sinh thấp thì phải vận động nâng mức
sinh lên như khu vực Đông Nam Bộ.
Phương án này thời gian qua chúng ta đã tổ chức thực hiện và
thu được một số kết quả nhất định, đó là cả nước đã và đang duy trì được mức
sinh thay thế. Tuy nhiên còn một số địa phương có mức sinh không những khá cao
và rất cao ( 2,69 con/phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ). Chúng ta phải nhìn bình
diện chung của một quốc gia, chứ không nên chia ra tỉnh nào sinh nhiều con thì
vận động đẻ ít đi; tỉnh, thành nào có tỉ lệ sinh thấp thì phải vận động nâng
mức sinh lên. Nếu nói như vậy thì chính sách dân số lại trở thành rất địa
phương chứ không còn là chính sách chung của một quốc gia.
Mặt khác, có lẽ trong tất cả các cuộc vận động thì vận động
thực hiện sinh đẻ ít là cực kỳ khó khăn, nó đụng chạm đến rất nhiều yếu tố, đối
tượng, không phải do nhận thức, trình độ thấp kém, mà ngay cả những người có
chức vụ, trình độ học vấn rất cao, biết và thông thuộc chủ trương chính sách
của Đảng và Nhà nước về công tác Dân số-KHHGĐ vẫn vi phạm. Điều đó, những nhà
hoạch định chính sách thấy được và cần suy nghĩ về cuộc vận động không dễ gì
thành công một cách lâu dài. Phải chăng, lâu nay sự thành công đó có sự đóng
góp không nhỏ vào sự đồng thuận và ý thức tự giác của đại bộ phận các cặp vợ
chồng trong độ tuổi sinh đẻ.
Vì thế, nếu thực hiện phương án 1 cũng đã đến lúc cần phải
thay đổi phương thức vận động gắn với những chính sách ràng buộc, chứ nếu chúng
ta duy trì cũng có thể được xem như là
buông lơi, nếu không dám nói là buông lỏng. Bởi khi đã vận động thì có lẽ chỉ
gắn vào thi đua, khen thưởng; chứ không
thể gắn vào quyền lợi để thực hiện giá trị kinh tế, văn hóa, pháp luật….
Trung tâm Dân số Hưng Nguyên luôn quan tâm nâng cao nghiệp vụ cho viên chức - Ảnh: KB |
Về phương án 2: Tiếp tục chính sách sinh ít hơn 2 con, khẩu
hiệu mỗi cặp vợ chồng sinh 1-2 con, nhằm tiếp tục giảm mức sinh, giảm tốc độ
gia tăng dân số, nhằm giảm bớt đầu tư cho an sinh xã hội.
Bản chất thực hiện chính sách sinh ít hơn 2 con cũng không
khả thi khi chúng ta đang dần tới xu thế già hóa dân số chứ không còn là thời
kỳ dân số vàng nữa. Bởi thế phương án này cũng không còn hợp lý nữa. Mặt khác,
chính sách sinh ít hơn 2 con bản chất lâu nay cũng chỉ mới là cuộc vận động,
giá trị pháp lý để yêu cầu bắt buộc thực hiện vẫn chưa được quy định rõ. Nên
sắp tới thực hiện theo phương án này sẽ khó khả thi và càng vất vả cho nhưng
người làm công tác Dân số-KHHGĐ mà lại chuẩn bị được đổi tên gọi là Dân số
& phát triển.
Về phương án 3: Cho đẻ thoải mái, không vận động, không cấp
phương tiện tránh thai miễn phí (hiện một nửa cấp miễn phí).
Thực hiện phương án này mà đạt tới được mục tiêu dân số ổn
định và duy trì được mức sinh thay thế khi và chỉ khi Nhà nước ban hành được hệ
thống chính sách khả thi về an sinh xã hội, về trách nhiệm đóng góp của công
dân đối với tất cả các sinh hoạt liên quan đến con người. Đồng thời, dân trí và
ý thức của người dân đã nhận thức được đầy đủ là sinh con có trách nhiệm đảm
bảo được các nhu cầu thiết yếu của chính bản thân họ, của người được sinh ra và
cho xã hội.
Còn nếu thả lỏng cho đẻ thoải mái, không vận động, không cấp
phương tiện tránh thai miễn phí chắc không phải đợi chờ lâu, dân số sẽ bùng nổ
ồ ạt chỉ sau 5 năm thôi. Và có lẽ đội ngũ làm công tác Dân số từ Trung ương đến
xóm, khối, thôn, bản sẽ không cần thiết phải tồn tại nữa. Bản thân tôi nghĩ nếu
nới lỏng mức sinh, tỷ lệ sinh Việt Nam sẽ tăng trở lại, kịch bản bùng nổ dân số
những năm sau khi ban hành Pháp lệnh Dân số 2003 sẽ lại xảy ra và có thể trầm
trọng hơn. Dân số là mẫu số của phát triển KT-XH. Chất lượng sống không thể
tăng lên nếu chúng ta để mẫu số “tăng lên”, trong khi tử số là phát triển KT-XH
không tăng tương xứng. Thiết nghĩ, phải 20 năm hoặc lâu hơn nữa, nước ta mới có
thể thay thế chính sách điều chỉnh mức sinh. Cùng quan điểm trên, nhiều người
được hỏi đều cho rằng không nên nới lỏng mức sinh bởi tình trạng nới lỏng sinh
khiến việc sinh con thứ ba trở lên tăng mạnh trở lại. Điều này rất nguy hiểm.
Quan điểm cá nhân, nếu được phép đề xuất, tôi chọn phương án
mỗi cặp vợ chồng được sinh không quá 3 con. Tại sao ?
- Một là, không phải cặp vợ chồng nào cũng sinh được đủ ba
con, mà có một số cặp vợ chồng chỉ sinh được có 1 con hoặc 2 con, thậm chí họ
kết hôn nhưng không sinh con ( xu thế hiện nay đang phát sinh) hoặc không có
khả năng sinh con. Vì thế, những cặp vợ chồng sinh ba con là để bù đắp đạt mức
trung bình có thể trong việc giải bài toán già hóa dân số đang xẩy ra khá nhanh
hiện nay.
- Hai là, xóa ngay được tâm lý “ sinh con dự phòng” mà lâu
nay một số cặp vợ chồng luôn có suy nghĩ đặt ra khi an sinh xã hội chưa bảo đảm
cho họ.
- Ba là, tạo ra được cơ hội giảm thiểu mất cân bằng giới
tính khi sinh rất lớn, bởi tư tưởng các cặp vợ chồng dù đạt được hay không
nhưng luôn mong muốn có con trai. Họ sẽ có cơ hội đạt nguyện vọng sinh con trai
nếu sinh 3 con. Và như thế sẽ thực hiện sinh đẻ một cách tự nhiên chứ không
dùng mọi biện pháp áp dụng như rất nhiều cặp vợ chồng rất lo lắng và áp lực
hiện nay.
- Bốn là, nâng tổng tỷ suất sinh lên sẽ chậm được tốc độ già hóa dân số
- Bốn là, nâng tổng tỷ suất sinh lên sẽ chậm được tốc độ già hóa dân số
Để thực hiện được phương án này một cách khả thi, thiết nghĩ
Nhà nước cần mạnh tay luật hóa quy định cụ thể, chứ không phải là cuộc vận động
như hiện nay. Ai vi phạm có chế tài nghiêm và rõ ràng thì việc ổn định dân số
sẽ dễ dàng hơn.
KimBang - TTDSHN