Pháp lệnh Dân số (PLDS) đã được Ủy Ban Thường vụ Quốc hội
thông qua ngày 9-1-2003, Chủ tịch nước công bố ngày 22-1-2003 và có hiệu lực
thi hành từ ngày 1-5-2003. Để bảo đảm thi hành Pháp lệnh này, Nghị định hướng
dẫn được Chính phủ ban hành từ ngày 16-9-2003. Như vậy, đã hơn 10 năm đi vào
đời sống.
Pháp lệnh Dân số là dấu mốc
quan trọng
Trong hơn 40 năm thực hiện công tác dân số, bảo vệ bà mẹ,
trẻ em và KHHGĐ ở nước ta đã có những Quyết định, Chỉ thị, Nghị quyết chuyên đề
về Dân số-KHHGĐ của Đảng, Nhà nước ban hành. Tuy vậy, PLDS là văn bản pháp lí
cao nhất từ trước đến nay đề cập một cách toàn diện vấn đề dân số. Công tác dân
số Việt Nam
đã gặt hái được những thành tựu to lớn. Năm 1999 Liên Hợp Quốc đã trao giải
thưởng dân số cho nước ta. Công tác Dân số-KHHGĐ của nước ta đã đạt được thành
công vượt bậc so với kế hoạch đề ra. Dự kiến nước ta sẽ đạt mức sinh thay thế
(2 con/cặp vợ chồng) sớm hơn 10 năm so với mục tiêu của chiến lược Dân số-KHHGĐ
đã đặt ra trước đây..
Hơn mười năm đầu của thế kỉ 21, công tác Dân số-KHHGĐ ở nước
ta vẫn chủ yếu tập trung cho mục đích giảm sinh, trong khi đó, vấn đề dân số
không phải chỉ là KHHGĐ mà bao hàm cả mục tiêu nâng cao chất lượng dân số, phân
bổ dân cư, an sinh cho người cao tuổi, bảo đảm sự phát triển bền vững của dân
số cả nước. Việc điều chỉnh quy mô và cơ cấu dân số của một quốc gia khoảng 90
triệu dân là chính sách lâu dài và phức tạp.
Hưng Nguyên đã góp phần thành
công trong thực hiện Pháp lệnh Dân số
Trước đây, khi chưa có văn bản pháp luật về dân số, HĐND đã
ban hành Nghị quyết chuyên đề về Dân số-KHHGĐ, lấy vận động, thuyết phục và
khen thưởng là chủ yếu. Dù điều kiện kinh tế còn nghèo, dân trí thấp, nhưng tỉ
lệ sinh vẫn giảm. Tuy nhiên, nhiều địa phương khác lại áp dụng các biện pháp
hành chính trong công tác dân số. Thực ra đây chỉ là các biện pháp giới hạn
trong cán bộ, đảng viên.
Dựa trên những kinh nghiệm qua 13 năm thực hiện Nghị quyết
của BCH TW Đảng khóa VII, lần thứ 4 về Dân số-KHHGĐ và chiến lược Dân số-KHHGĐ
giai đoạn 1993- 2000, nên từ năm 2001, Chiến lược Dân số Việt Nam giai đoạn
2001-2010 đã ra đời, đề cập các vấn đề dân số toàn diện hơn, chuyển từ mục tiêu
kiểm soát số lượng sang mục tiêu nâng cao chất lượng dân số.
Bởi thế, trong những năm qua, được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ
đạo sát sao của Huyện ủy, HĐND, UBND huyện, sự nỗ lực, cố gắng của các cấp, các
ngành và nhân dân trong huyện, việc triển khai thực hiện Pháp lệnh Dân số và
các văn bản pháp luật liên quan trên địa bàn huyện đã đạt được những kết quả
tích cực, nhận thức của nhân dân có chuyển biến tích cực, quy mô gia đình có 1
hoặc 2 con được chấp nhận ngày càng rộng rãi; sự gia tăng quy mô dân số được
khống chế và vượt chỉ tiêu chiến lược Dân số giai đoạn 2001-2010 đề ra; tỷ lệ
phát triển dân số tự nhiên luôn giữ ở mức dưới 1%; tỷ suất sinh luôn thấp hơn
mức trung bình của tỉnh. Dân cư được phân bố tương đối hợp lý giữa các khu vực,
vùng địa lý, góp phần phát huy thế mạnh của từng vùng trong huyện. Chất lượng
về dân số ngày càng được nâng lên, người dân được chăm sóc nuôi
dưỡng đầy đủ, tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em ngày một giảm. Dịch vụ y tế, chăm
sóc sức khoẻ cho nhân dân ngày càng được quan tâm, nhiều chương trình, dự án về
chăm sóc sức khỏe sinh sản/kế hoạch hóa gia đình được triển khai thực hiện và
phát huy hiệu quả.
Dân số trung bình, sinh, tử Hưng Nguyên từ năm 1999 -2013:
TT
|
Nội dung
|
Đơn vị
|
1999
|
2000
|
2001
|
2002
|
2003
|
2004
|
2005
|
2006
|
1
|
Dân số
Trung bình
|
Người
|
119.981
|
118.966
|
119.325
|
119.639
|
119.701
|
120.485
|
120.447
|
120.234
|
2
|
Số trẻ sinh trong
năm
|
cháu
|
1.605
|
1.570
|
1.484
|
1.378
|
1.357
|
1.454
|
1.417
|
1.375
|
3
|
Số trẻ sinh là con thứ 3+
|
cháu
|
334
|
298
|
257
|
207
|
191
|
282
|
264
|
263
|
5
|
Số người chết trong
năm
|
Người
|
624
|
618
|
492
|
555
|
540
|
583
|
537
|
611
|
6
|
Tỷ Suất
chết CDR
|
(%o)
|
5,20
|
5,19
|
4,12
|
4,64
|
4,51
|
4,84
|
4,46
|
5,10
|
7
|
Tỷ
suất sinh CBR
|
(%o)
|
13,38
|
13,20
|
12,43
|
11,51
|
11,34
|
12,07
|
11,76
|
11,44
|
8
|
Tăng Tự nhiên
TTN
|
(%o)
|
8,18
|
8,01
|
8,31
|
6,87
|
6,83
|
7,23
|
7,30
|
6,34
|
TT
|
Nội dung
|
Đơn vị
|
2007
|
2008
|
2009
|
2010
|
2011
|
2012
|
ước 2013
|
1
|
Dân số
Trung bình
|
Người
|
120.961
|
111.917
|
111.478
|
111.351
|
109.826
|
110.457
|
112.018
|
2
|
Số trẻ sinh trong
năm
|
cháu
|
1.486
|
1.321
|
1.320
|
1.204
|
1.559
|
2.014
|
1.554
|
3
|
Số trẻ sinh là con thứ 3+
|
cháu
|
257
|
263
|
234
|
207
|
239
|
359
|
304
|
4
|
Tỷ lệ sinh lần 3+
|
(%)
|
17,29
|
19,91
|
17,73
|
17,19
|
15,33
|
17,83
|
19,56
|
5
|
Số người chết trong
năm
|
Người
|
668
|
643
|
563
|
589
|
564
|
615
|
|
6
|
Tỷ Suất
chết CDR
|
(%o)
|
5,52
|
5,74
|
4,63
|
5,28
|
5,13
|
5,6
|
|
7
|
Tỷ
suất sinh CBR
|
(%o)
|
12,30
|
11,80
|
11,90
|
10,81
|
14,19
|
18,2
|
13,9
|
8
|
Tăng Tự nhiên
TTN
|
(%o)
|
6,78
|
6,06
|
6,23
|
5,52
|
9,05
|
13,00
|
Những con số nói trên cũng phản ánh được Dân số huyện Hưng
nguyên qua 10 năm thực hiện Pháp lệnh Dân số khá thành công. Từ quy mô, cơ cấu
dân số, phân bố dân cư ổn định và hợp lý, đến chất lượng dân số được cải thiện
rõ nét. Kế hoạch hoá gia đình và sức khoẻ sinh sản được chú trọng. Công tác dân
số thực hiện khá nổi bật. Mức sinh thay thế trên địa bàn huyện được duy trì.
Đăng ký dân số trong việc thu thập và cập nhật những thông tin cơ bản về dân số
của mỗi người dân theo từng thời gian kịp thời. Dịch vụ dân số bao gồm các hoạt
động phục vụ công tác dân số: cung cấp thông tin, tuyên truyền, giáo dục, vận
động, hướng dẫn, tư vấn về dân số (sau đây gọi chung là tuyên truyền, tư vấn);
cung cấp biện pháp chăm sóc sức khoẻ sinh sản, kế hoạch hoá gia đình, nâng cao
chất lượng dân số và các hoạt động khác theo quy định của pháp luật thường
xuyên được đẩy mạnh. Góp phần thực hiện mục tiêu dân số ổn định, xã hội phồn
vinh, gia đình hạnh phúc. Hưng Nguyên là một trong những đơn vị đi đầu trong
công tác Dân số-KHHGĐ của tỉnh nhà. Nhiều năm liền được tặng Bằng khen của Chủ
tịch UBND tỉnh và Bộ trưởng Bộ Y tế. Đặc biệt là 2 lần được Đảng và Nhà nước
tặng Huân chương lao động hạng Ba cho nhân dân và cán bộ (năm 2000) và cho
ngành Dân số-KHHGĐ ( 2007) về thành tích Dân số-KHHGĐ.
....Nhưng
vẫn luôn là vấn đề nóng
Bên
cạnh đó, việc thực hiện Pháp lệnh Dân số và các văn bản pháp luật liên quan vẫn
đang bộc lộ những khó khăn, vướng mắc, tồn tại đang làm nóng lên trong quá trình thực thi Pháp lệnh, thể
hiện ở một số vấn đề sau:
Một là, tính logic giữa quyền và
nghĩa vụ giữa các cặp vợ chồng, cá nhân trong độ tuổi sinh đẻ thiếu chặt chẽ,
do đó không ít người lợi dụng sự sở hở về quyền mà quên đi nghĩa vụ của mình
nên sau khi có Pháp lệnh Dân số thì tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên có xu hướng
tăng cho thấy như ở bảng thống kê nói trên.
Trước tình hình đó, Pháp lệnh sửa đổi điều
10 của Pháp lệnh Dân số ngày 27/12/2008 đã được làm sáng tỏ và quy định cụ thể hơn. Tuy vậy, tính pháp lý
của Pháp lệnh Dân số vẫn chỉ là " ....thực hiện cuộc vận động dân số và kế
hoạch hóa gia đình, chăm sóc sức khỏe sinh sản". Từ trước đến nay, công
tác Dân số-KHHGĐ luôn luôn được coi là một cuộc vận động lớn của Đảng, Nhà nước
và cộng đồng thông qua các điều lệ, quy ước riêng của mình để vận động thực
hiện công tác Dân số-KHHGĐ. Cán bộ, công chức, viên chức, đảng viên phải tuân
theo quy định của Pháp lệnh Cán bộ, Công chức, Điều lệ Đảng. Còn người dân phải
tuân theo các quy định trong Pháp lệnh và hương ước của địa phương nên việc thực thi pháp luật còn rất hạn chế, đang dừng ở
mức độ hạn chế là cuộc vận động.
Hai là, trong những năm gần đây đã
có hiện tượng xuất bản một số sách, báo, tạp chí có nội dung giới thiệu và phổ
biến các biện pháp tạo giới tính thai nhi, mặc dù dư luận không đồng tình, nhưng
chúng ta chưa có quy định pháp lí và
giải pháp cụ thể để để xử lí vấn đề này.
Trong khi đó vấn đề mất cân bằng giới
tính thai nhi đang là vấn đề "báo động đỏ". Mặc dù, các hành vi nghiêm cấm đã quy định rõ
tại điều 7 của Pháp lệnh; trong đó, việc cấm tuyên truyền, phổ biến các phương
pháp tạo giới tính thai nhi, nạo hút thai cũng đã được thể hiện rõ trong Pháp
lệnh Dân số.
Ba là, tính nhất quán trong hệ thống
văn bản pháp lý, lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện thiếu đồng nhất nên gặp
không ít khó khăn trong tổ chức thực hiện.
Những tồn tại, hạn chế, nhưng đó
cũng chính là những bài học kinh nghiệm quý giá để chính quyền, các ngành, đoàn
thể từ huyện đến cơ sở nghiêm túc kiểm điểm, rút kinh nghiệm để chỉ đạo, tổ
chức triển khai thực hiện công tác dân số - KHHGĐ hiệu quả hơn ngay trong năm
2013 và những năm tiếp theo.
Để thực hiện tốt
công tác Dân số-KHHGĐ năm 2013 và những năm tiếp theo, cần tiếp tục đẩy mạnh
công tác tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp
luật của Nhà nước về Dân số-KHHGĐ; tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy,
chính quyền các cấp, các ban ngành, đoàn thể trong thực hiện Pháp lệnh Dân số
và các văn bản pháp luật liên quan, huy động sự tham gia tích cực của cả hệ
thống chính trị trong thực hiện chính sách dân số; khắc phục triệt để tư tưởng
chủ quan, thỏa mãn, buông lỏng trong lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác Dân
số-KHHGĐ; gắn kết chặt chẽ việc thực hiện công tác Dân số-KHHGĐ với phong trào
“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” và xây dựng nông thôn mới... Tập
trung đổi mới nội dung, phương pháp truyền thông về Dân số-KHHGĐ, chăm sóc sức
khỏe sinh sản nhằm nâng cao hiệu quả công tác truyền thông, thay đổi nhận thức
của nhân dân về thực hiện công tác dân số để đông đảo nhân dân tiếp tục chấp
nhận và duy trì mô hình gia đình ít con, no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc
và bền vững. Nâng cao vai trò gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong thực hiện
chính sách dân số./.
Nguyễn Kim Bảng
Giám đốc Trung
tâm Dân số-KHHGĐ
huyện Hưng Nguyên