Xã Hưng
Thịnh là xã nằm trên trục đường tỉnh lộ 558 (thường gọi 8B), có Quốc lộ 1,
đường tránh Vinh chạy qua và cách Trung tâm Thành phố Vinh khoảng 7 km về
phía Tây Nam, cách Trung tâm Thị trấn Hưng Nguyên 5 km. Là xã có quỹ
đất lớn, đặc biệt là đất sản xuất nông nghiệp. Dân cư ở tập trung,
hệ thống hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội tương đối hoàn chỉnh.
- Phía Bắc giáp Thành Phố Vinh và Phượng
Hoàng Trung Đô (dưới chân núi Quyết) Thành
Phố Vinh.
- Phía Nam giáp xã Hưng Phúc;
- Phía Đông giáp xã Hưng Lợi;
- Phía Tây giáp xã Hưng Mỹ, phân giới bởi
đường sắt Bắc - Nam .
Xã Hưng Thịnh có địa hình thấp trũng, thấp
dần về phía Đông. Thấp nhất là vùng đất canh tác nông nghiệp phía Đông
(2,4m), cao độ bình quân khu vực 3,8m. Địa chất công trình mang đặc điểm
chung của địa chất khu vực Thành Phố Vinh và huyện Hưng Nguyên. Là địa chất của
vùng trầm tích đồng bằng hạ lưu Sông Cả. Cấu tạo địa tầng gồm nhiều lớp cát màu
vàng, nâu, xám, đen, cát pha sét các dạng nhão, chặt vừa và chặt.
Hưng Thịnh có nguồn nước ngọt từ sông Cầu
Gãy và sông Rào Màng, đảm bảo nguồn nước sinh hoạt và sản xuất. Mực nước các
sông, kênh phụ thuộc mực nước sông Lam.
Toàn xã có tổng diện tích đất tự nhiên toàn xã là 435,7 ha,
có 1130 hộ và hơn 4000 nhân khẩu được bố trí trên 12 đơn vị xóm gồm: Yên Thọ,
Yên Phong, Đồng Phong, Yên Đồng, Yên Phú, Yên Hòa, Yên Trung, Yên Thượng, Yên
Hạ, Xuân Am, Yên Tùy, Xuân Tân.
- Thuận lợi: Địa hình
rộng, trình độ dân trí đồng đều. Tình hình an ninh trật tự được giữ vững, bình
quân thu nhập đầu người tăng đều hàng năm.
Người dân Hưng Thịnh có lối sống giản dị, cần cù, chăm chỉ với
khoảng 55% là sản xuất nông nghiệp, 45% sống bằng nghề dịch vụ, tiểu thủ công
nghiệp, đặc biệt Hưng Thịnh còn nổi tiếng với nghề gò hàn, buôn bán, dịch vụ.
Về tôn giáo tín ngưỡng: Là một xã giàu
truyền thống văn hoá, yêu nước. Nơi đây có di tích Đền Ông Hoàng Mười - là địa
điểm tâm linh quan trọng, thu hút được sự quan tâm, chú ý của người dân. Đền Ông Hoàng Mười được xây dựng năm 1634
(thời Hậu Lê). Năm 2002, đền được UBND tỉnh Nghệ An xếp hạng Di tích lịch sử
văn hoá cấp tỉnh. Ngoài ra, Hưng Thịnh còn có 25% theo đạo Công giáo, có 3 xóm
giáo trong đó có 1 xóm giáo toàn tòng.
- Khó khăn: Là vùng có địa hình chiêm trũng nên hàng năm đều
phải hứng chịu nhiều đợt lũ lụt. Là địa bàn giáp ranh với Thành Phố Vinh, có nhiều
thành phần dân cư nhập cư vào địa bàn. Vì vậy, nhận thức cũng như việc tuyên
truyền phổ biến các chủ trương gặp nhiều khó khăn.
II. TÌNH
HÌNH CHÍNH TRỊ, KINH TẾ - XÃ HỘI:
Hưng Thịnh là xã có tiềm năng tài nguyên
đất đai màu mỡ, bằng phẳng, hệ thống giao thông, thủy lợi nội đồng cơ bản hoàn
thiện đáp ứng nhu cầu tưới, tiêu chủ động cho toàn bộ diện tích đất nông nghiệp
mang lại hiệu quả kinh tế khá tốt trong sản xuất. Năng suất bình quân đạt 7,24
tấn/ha, tổng sản lượng đạt 1342 tấn. Thu nhập bình quân đầu người đến nay là 20
triệu đồng/người/năm.
Bên cạnh đó, ngành nghề dịch vụ phát triển
mạnh đã thu hút lực lượng lao động tham gia hoạt động trên lĩnh vực này ngày
một tăng, nhân dân đã năng động chuyển đổi số lượng lao động nhàn rỗi của Nông
nghiệp sang tham gia các hoạt động dịch vụ buôn bán, ngành nghề xây dựng, gò
hàn cơ khí...
Đặc biệt, xã Hưng Thịnh đã làm tốt công tác xóa
đói, giảm nghèo, tăng cường làm giàu, đến nay Hưng Thịnh còn lại 6% hộ nghèo.
Đảng bộ xã Hưng Thịnh có 16 chi bộ cơ sở trong đó có 12 chi
bộ nông thôn, 3 chi bộ khối trường học, 1 chi bộ Trạm y tế xã. Hàng năm, Đảng
bộ xã được công nhận là Đảng bộ trong sạch vững mạnh; chính quyền, Mặt trận và
các tổ chức đoàn thể được xếp loại hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Dưới sự lãnh đạo của
BCH Đảng bộ, quản lý điều hành của chính quyền và công tác vận động quần chúng
của Mặt Trận Tổ Quốc và các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội, cùng với sự nỗ
lực cố gắng của đội ngũ cán bộ và toàn thể nhân dân; Trong nhiều năm liền, Chính quyền và các ban ngành liên quan
đến Mặt trận luôn nằm trong tốp đầu của huyện Hưng Nguyên.
Hưng Thịnh là xã có phong trào văn
hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao chuyển biến rõ rệt. Phong trào toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hoá khu dân cư đã và đang thu được những kết quả tích
cực. Các hoạt động văn hóa, văn nghệ, TDTT đã trở thành các sinh hoạt thường
xuyên trong mỗi địa bàn dân cư, các trường học; các thiết chế văn hóa tại cơ sở
như Nhà văn hóa, cổng làng, sân chơi thể thao, hệ thống truyền thanh kỹ thuật
số không dây, các cụm cổ động, panô áp phích.v.v..đã được đầu tư nâng cấp cơ
bản đạt chuẩn từ xã đến các xóm; các hoạt động y tế, giáo dục luôn được quan
tâm chú trọng...từng bước đưa đời sống văn hoá, tinh thần của nhân dân ngày
càng nâng cao.
Toàn xã hiện có 8 làng đạt danh hiệu Làng văn hoá và 3
trường học đạt đơn vị văn hoá, Trạm y tế xã; tỷ lệ gia đình văn hoá đạt gần
80%, các trường học đang xây dựng đạt chuẩn, riêng trường Mầm non, trường Tiểu
học Hưng Thịnh đã được công nhận đạt chuẩn quốc gia mức độ I. Tình hình an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội luôn được giữ vững.
Hệ thống cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật của địa phương
được chú trọng đầu tư; 100% hệ thống giao thông trong toàn xã đã được bê tông
hóa; các công trình như: Trụ sở làm việc của xã, hệ thống các trường học, Trạm
y tế, Bưu điện văn hóa xã…
Xã Hưng Thịnh đang tích cực khơi dậy tiềm năng, phát huy
tinh thần tự lực, tự cường, xây dựng quê hương ngày càng phát triển đi lên.
III.
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG TÁC DÂN SỐ - KHHGĐ:
1.
Qúa trình hình thành:
Năm 1994 Ban Dân số - KHHGĐ xã
Hưng Thịnh được thành lập theo Nghị Định số 42/CP, ngày 21/6/1993 của Chính phủ
quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn tổ chức bộ máy và lề lối làm việc
của Uỷ ban Quốc gia Dân số và kế hoạch hóa gia đình. Do ông Hồ Trọng Thanh Chủ
tịch UBND xã làm Trưởng ban từ năm 1994 - 1999, Bà Dương Thị Sâm làm cán bộ chuyên trách Dân số -KHHGĐ từ năm 1994 - 1995, Ông Lê Văn
Hùng làm cán bộ chuyên trách Dân số - KHHGĐ từ năm 1996 - 1997; các ông, bà
trưởng các ban ngành, đoàn thể có liên quan làm thành viên và mạng lưới cộng
tác viên của 16 xóm, nhưng mới chỉ có 6 Cộng tác viên. Đến năm 1999, Ông
Dương Văn Bính, Chủ tịch UBND xã làm Trưởng ban Dân số - KHHGĐ xã, Bà Võ Thị
Khuyên làm cán bộ Dân số - KHHGĐ xã.
Đến năm
2002 thực hiện Nghị Định số 94/CP, ngày 11/11/2002 của Chính phủ quy định về
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Uỷ ban Dân số, Gia đình
& Trẻ em. Ban Dân số - KHHGĐ xã Hưng Thịnh được đổi thành Ban Dân số, Gia
đình & Trẻ em.
Đ/c Phan Thị Mai Viên chức DS-KHHGĐ xã |
Và đến năm 2008, Ban Dân số, Gia
đình & Trẻ em xã Hưng Thịnh được đổi thành Ban Dân số - Kế hoạch hoá gia đình, theo Thông tư 05/2008/TT-BYT, ngày 14/5/2008
Về việc hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức bộ máy Dân số - KHHGĐ ở
địa phương. Do ông Dương Văn Bính Chủ tịch UBND xã làm Trưởng ban, bà Phan Thị
Mai làm cán bộ chuyên trách Dân
số - KHHGĐ, các ông, bà trưởng các ban ngành, đoàn thể có liên quan làm thành
viên và mạng lưới Cộng tác viên của 12 xóm. Đến ngày 3/9/2013, bà Phan
Thị Mai trở thành viên chức Dân số - KHHGĐ xã theo Quyết định số 77 ngày
19/10/2012 của Uỷ ban nhân dân Tỉnh Nghệ An.
Năm 2008 do chia tách địa giới, 4 xóm chuyển về Thành Phố Vinh gồm xóm Châu Hưng, Xóm
Yên Cư, Xóm 1, Xóm 2. Hiện nay xã Hưng Thịnh còn 12 xóm với 12 cộng tác viên.
Đến năm 2010, Ông Dương Văn Hương,
Chủ tịch UBND xã làm Trưởng ban Dân số - KHHGĐ xã.
Ban chỉ đạo thực hiện công tác Dân số - Kế hoạch hoá gia đình xã Hưng Thịnh từ năm 2012 đến nay,
Ban chỉ đạo thực hiện công tác Dân số-
KHHGĐ xã Hưng Thịnh gồm các ông bà sau:
TT
|
Họ và tên
|
Chức vụ
|
Nhiệm vụ
|
1
|
Lê
Văn Hùng
|
Chủ tịch UBND xã
|
Trưởng ban
|
2
|
Ngô
Xuân Giáp
|
Trạm trưởng trạm y tế
|
Phó ban
|
3
|
Phan
Thị Mai
|
Chuyên trách DS-KHHGĐ
|
Phó ban trực
|
4
|
Dương
Văn Cương
|
Cán bộ Tư pháp -Hộ Tịch
|
Ban viên
|
5
|
Ngô
Xuân Lương
|
Chủ tịch Hội CCB
|
Ban viên
|
6
|
Hoàng
Văn Thông
|
Chủ tịch MTTQ
|
Ban viên
|
7
|
Nguyễn
Văn Trinh
|
CB Văn hoá
|
Ban viên
|
8
|
Lê Thanh
Bình
|
CB Tài chính
|
Ban viên
|
9
|
Nguyễn
Bá Chế
|
Văn phòng - Thống kê
|
Ban viên
|
10
|
Ngô
Xuân Hùng
|
Trưởng công an
|
Ban viên
|
11
|
Hồ
Văn Đức
|
Chủ tịch Hội ND
|
Ban viên
|
12
|
Lê
Thị Yến
|
Chủ
tịch Hội LHPN
|
Ban
viên
|
13
|
Dương
Thị Ca
|
Bí
thư ĐTN
|
Ban
Viên
|
Về mạng lưới cộng tác viên Dân số
- KHHGĐ hiện nay như sau:
TT
|
Họ và tên
|
Xóm
|
1
|
Ngô Thị Tuyển
|
Yên Thọ
|
2
|
Kim Thị Điệp
|
Yên Phong
|
3
|
Phan Thị Hoan
|
Đồng Phong
|
4
|
Nguyễn Thị Hà
|
Yên Đồng
|
5
|
Nguyễn Thị Thu
|
Yên Phú
|
6
|
Nguyễn Thị Hà
|
Yên Hòa
|
7
|
Ngô Thị Hoài
|
Yên Trung
|
8
|
Hồ Thị Hồng
|
Yên Thượng
|
9
|
Lê Thị Phương
|
Yên Hạ
|
10
|
Lê Thị Chung
|
Xuân Am
|
11
|
Trần Thị Chính
|
Yên Tùy
|
12
|
Nguyễn Thị Lương
|
Xuân Tân
|
2. Những
kết quả đạt được:
Trong những năm qua, với sự quan tâm, lãnh
đạo, chỉ đạo của Trung tâm Dân số - KHHGĐ huyện, cấp ủy Đảng, chính quyền, sự
phối hợp chặt chẽ của các ban ngành, đoàn thể, bằng sự nỗ lực của đội ngũ làm
công tác Dân số - KHHGĐ từ xã đến xóm, công tác Dân số - KHHGĐ xã Hưng Thịnh đã
đạt nhiều kết quả nổi bật.
Ngay từ đầu mới thành lập toàn xã 1439 hộ,
với 6213 nhân khẩu; tỷ suất sinh thô 19,8%o, tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên là
20,5%, tỷ lệ sử dụng các biện pháp tránh thai là 51,2%. Ở thời điểm này công
tác Dân số - KHHGĐ xã còn gặp nhiều khó khăn, số cộng tác viên ít nên khó khăn
trong công tác tuyền truyền vận động, chất lượng dân số còn thấp, tỷ lệ trẻ em
suy dinh dưỡng trên 20%.
Đến tháng 8 năm 2008, do chia tách 4 xóm về
Thành Phố Vinh, nên toàn xã còn 1102 hộ với 4136 nhân khẩu. Tỷ suất sinh thô
năm 2008, là 19,5%o, tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên là 18,6%, tỷ lệ sử dụng các
biện pháp tránh thai đạt 79,6%.
Đến quý I năm 2014, công tác Dân
số - KHHGĐ đã từng bước được ổn định, toàn xã có 1141 hộ với 310 hộ giáo dân,
4554 nhân khẩu. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên bình quân 1% năm. Tỷ lệ sử dụng các
biện pháp tránh thai đạt 81,3%. Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng giảm xuống còn 17%.
Tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên giảm dần qua các năm, năm 2008 tỷ lệ sinh con thứ 3
trở lên là 18,6%, đến năm 2014 giảm xuống còn 12,8%. Đặc biệt xã Hưng Thịnh có
nhiều xóm nhiều năm liền không có người sinh con thứ 3 trở lên là xóm: Yên tùy,
Yên Thượng, Yên Trung. Tiêu biểu cho phong trào này là xóm Yên Trung có 17 năm
liền không có người sinh con thứ 3 trở lên.
IV.
THÀNH TÍCH KHEN THƯỞNG:
1. Khen thưởng ở xã:
Năm 2000:
- Chủ tịch UBND huyện tặng giấy
khen đã có thành tích xuất sắc trong công tác Bảo vệ và chăm sóc giáo dục trẻ
em năm 2000.
Năm 2004:
- Chủ tịch UBND tỉnh tặng giấy
khen đã có thành tích xuất sắc trong công tác Dân số, Gia đình và Trẻ em năm
2004.
Năm 2006:
- Chủ tịch UBND huyện tặng giấy
khen đã có thành tích xuất sắc trong công tác Dân số, Gia đình và Trẻ em năm
2006.
Năm 2009:
- Chủ tịch UBND huyện tặng giấy
khen đã có thành tích xuất sắc trong công tác Dân số-Kế hoạch hóa gia đình,
giảm tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên trên 5%.
Năm 2010:
- Chủ tịch UBND huyện tặng giấy
khen đã có thành tích xuất sắc trong công tác Chiến lược truyền thông chuyển
đổi hành vi DS/SKSS/KHHGĐ giai đoạn ( 2006 -2010).
2. Khen thưởng ở xóm:
- Năm 2007, xóm Yên Trung được chủ
tịch UBND huyện khen thưởng 10 năm liền không có người sinh con thứ 3 trở lên.
- Năm 2008, xóm Yên Tùy được chủ
tịch UBND huyện khen thưởng 5 năm liền không có người sinh con thứ 3 trở lên.
- Năm 2009, xóm Yên Trung được chủ
tịch UBND huyện khen thưởng 12 năm liền không có người sinh con thứ 3 trở lên.
- Năm 2010, xóm Đồng Phong được
chủ tịch UBND huyện khen thưởng 2 năm liền không có người sinh con thứ 3 trở
lên.
- Năm 2010, xóm Yên Hạ được chủ
tịch UBND huyện khen thưởng 2 năm liền không có người sinh con thứ 3 trở lên.
- Năm 2011, xóm Yên Trung được chủ
tịch UBND huyện khen thưởng 15 năm liền không có người sinh con thứ 3 trở lên.
- Năm 2012, xóm Yên Đồng được chủ tịch UBND huyện khen thưởng 2 năm
liền không có người sinh con thứ 3 trở lên.
Nguồn: Ban chỉ
đạo thực hiện công tác Dân số - KHHGĐ xã Hưng Thịnh