( Tiếp theo phần 1)
So với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp mới có
những sửa đổi, bổ sung và phát triển quan trọng về quyền con người, quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân sau đây:
-
Khẳng định “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người,
quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận,
tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật” (Điều 14).
Quy định này thể hiện sự phát triển quan trọng về nhận thức và tư duy trong
việc ghi nhận quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp. Bởi vì Hiến pháp
năm 1992 chỉ ghi nhận quyền con người về chính trị, dân sự và kinh tế, văn hoá,
xã hội được thể hiện trong quyền công dân (Điều 50). Hiến pháp đã bổ
sung nguyên tắc hạn chế quyền phù hợp với các công ước quốc tế về quyền con
người mà Việt Nam
là thành viên. Theo đó, quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế
theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh
quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng (Điều
14). Việc hạn chế quyền con người, quyền công dân không thể tùy tiện mà
phải “theo quy định của luật”.
-
Khẳng định và làm rõ hơn các nguyên tắc về quyền con người, quyền và nghĩa vụ
cơ bản của công dân trong Hiến pháp theo hướng: quyền công dân không tách rời
nghĩa vụ công dân; mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác; công
dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội; việc thực
hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân
tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác (Điều 15).
-
Tiếp tục làm rõ nội dung quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân
về chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội, văn hóa và trách nhiệm của Nhà nước và
xã hội trong việc tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền con người. Đồng thời, Hiến
pháp sắp xếp lại các điều khoản theo các nhóm quyền để bảo đảm tính thông nhất
giữa quyền con người và quyền công dân, bảo đảm tính khả thi hơn.
-
Bổ sung một số quyền mới là thành tựu của gần 30 năm đổi mới đất nước; thể hiện
rõ hơn trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm thực hiện quyền con
người, quyền công dân. Đó là quyền sống (Điều 19), quyền hiến mô, bộ
phận cơ thể người, hiến xác (Điều 20), quyền bất khả xâm phạm về đời
sống riêng tư (Điều 21), quyền được bảo đảm an sinh xã hội (Điều 34),
quyền kết hôn và ly hôn (Điều 36), quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá
trị văn hoá, tham gia vào đời sống văn hoá, sử dụng các cơ sở văn hoá (Điều
41), quyền xác định dân tộc (Điều 42), quyền được sống trong môi
trường trong lành (Điều 43),… Việc ghi nhận các quyền mới này hoàn toàn
phù hợp với các điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam là thành viên,
thể hiện sự nhận thức ngày càng rõ hơn về quyền con người và khẳng định cam kết
mạnh mẽ của Việt Nam trong thực hiện quyền con người.
-
Tiếp tục kế thừa các nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp năm 1992 như
nghĩa vụ trung thành với Tổ quốc (Điều 44), nghĩa vụ quân sự (Điều 45),
nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp và pháp luật, tham gia bảo vệ an ninh quốc gia,
trật tự, an toàn xã hội và chấp hành những quy tắc sinh hoạt công cộng (Điều
46); riêng nghĩa vụ nộp thuế được sửa đổi về chủ thể là mọi người có nghĩa
vụ nộp thuế theo luật định (Điều 47) mà không chỉ công dân có nghĩa vụ
nộp thuế như Hiến pháp năm 1992.
-
Về cách thức thể hiện, Hiến pháp có sự đổi mới quan trọng theo hướng Hiến pháp
ghi nhận mọi người có quyền, công dân có quyền; quyền con người là quyền tự
nhiên, bất cứ ai cũng có quyền đó; quyền công dân là quyền của những người có
quốc tịch Việt Nam. Để mọi người, công dân thực hiện các quyền của mình thì
Hiến pháp quy định trách nhiệm của Nhà nước là phải ban hành luật hoặc pháp
luật để tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người và công dân thực hiện tốt các
quyền của mình.
4.
Kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường (Chương
III):
Chương
III của Hiến pháp được xây dựng trên cơ sở gộp Chương II - Chế độ kinh tế và
Chương III - Văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ của Hiến pháp năm 1992 nhằm
thể hiện sự gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển
văn hóa, xã hội, giáo dục, khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường.
4.1.
Về kinh tế:
HP
làm rõ hơn tính chất, mô hình kinh tế (Điều 50, Điều 51), vai trò quản
lý của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN (Điều 52),
tài sản công thuộc sở hữu toàn dân (Điều 53), việc quản lý và sử dụng
đất đai (Điều 54) và bổ sung điều mới (Điều 55) về quản lý, sử
dụng ngân sách NN, dự trữ quốc gia và các nguồn tài chính công khác; cụ thể như
sau:
- Về
tính chất, mô hình nền kinh tế: Trên cơ sở kế thừa quy định của HP năm 1992,
HP quy định nước CHXHCN VN xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, phát huy
nội lực, hội nhập, hợp tác quốc tế, gắn kết chặt chẽ với phát triển văn hoá,
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, thực hiện công nghiệp
hoá, hiện đại hoá (Điều 50). Quy định như vậy vừa thể hiện được bản
chất, vừa thể hiện được động lực và mục tiêu phát triển lâu dài, bền vững nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ,
hài hoà giữa phát triển KT và các vấn đề XH.
- Về
các thành phần kinh tế: Hiến pháp quy định nền kinh tế Việt Nam là nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh
tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo (Điều 51); khẳng định Nhà nước
và kinh tế Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc định hướng, điều tiết sự
phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Hiến pháp không nêu cụ
thể tất cả các thành phần kinh tế như Hiến pháp năm 1992. Cách thể hiện này phù
hợp với tính chất quy định của đạo luật cơ bản, còn tên gọi và vai trò của từng
thành phần kinh tế sẽ được xác định trong luật và các chính sách cụ thể của Nhà
nước. Hiến pháp quy định các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan
trọng của nền kinh tế quốc dân. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình
đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật (Điều 51). Lần đầu tiên, vai
trò của doanh nghiệp, doanh nhân được ghi nhận trong Hiến pháp (khoản 3 Điều
51). Doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phải hoạt động theo cơ chế
thị trường, xóa bỏ độc quyền doanh nghiệp, các cơ chế, chính sách tạo ra sự bất
bình đẳng.
- Về
các hình thức sở hữu: Hiến pháp ghi nhận, tôn trọng đa dạng hình thức sở
hữu, bảo hộ quyền sở hữu tư nhân cả về tư liệu sản xuất, các quyền tài sản và
sở hữu trí tuệ. Kế thừa và phát triển quy định về sở hữu toàn dân trong Hiến
pháp năm 1992, Hiến pháp tiếp tục khẳng định đất đai, tài nguyên nước, tài
nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên
khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu
toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý (Điều 53).
-
Về quản lý sử dụng đất đai: ĐĐ là lãnh thổ
thiêng liêng của quốc gia, là tư liệu sản xuất chủ yếu, nguồn lực quan trọng
phát triển đất nước. Vì vậy, quan điểm nhất quán của Đảng, NN và ND ta đã được
xác định từ năm 1980 đến nay là ĐĐ thuộc sở hữu toàn dân, do NN đại diện chủ sở
hữu và thống nhất quản lý. HP bổ sung quy định “quyền sử dụng đất được pháp
luật bảo hộ” (khoản 2 Điều 54) để thể hiện thái độ tôn trọng, bảo vệ
của NN đối với quyền sử dụng đất của công dân, vừa tạo cơ sở pháp lý vững chắc
để tiếp tục phòng, chống và xử lý nghiêm minh các trường hợp sai phạm trong
thực hiện pháp luật về ĐĐ. HP quy định Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá
nhân đang sử dụng trong trường hợp thật cần thiết do luật định vì mục đích quốc
phòng, an ninh; phát triển KT-XH vì lợi ích quốc gia, công cộng (khoản 3
Điều 54). Trong điều kiện phát triển của nước ta hiện nay, vẫn cần thiết
phải thu hồi đất để thực hiện các dự án phát triển KT - XH. Tuy nhiên, để tránh
tình trạng thu hồi đất tràn lan, tuỳ tiện, HP quy định việc thu hồi đất để
thực hiện các dự án phát triển KT - XH gắn trực tiếp với các mục tiêu
vì lợi ích quốc gia, công cộng; việc thu hồi đất phải công khai, minh bạch và
được bồi thường theo quy định của PL (khoản 3 Điều 54). HP bổ sung quy
định về trưng dụng đất có thời hạn trong một số trường hợp đặc biệt như
chiến tranh, tình trạng khẩn cấp về quốc phòng, an ninh, trường hợp phải đối
phó với nguy cơ hoặc khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh (khoản 4
Điều 54) để thống nhất với quy định tại Điều 32 của HP về trưng dụng tài
sản, đồng thời làm cơ sở cho việc cụ thể hóa các quy định về trưng dụng đất
trong Luật Đất đai và các luật có liên quan.
-
Về tài chính công: Hiến pháp bổ sung một
điều quan trọng về chính sách tài chính công (Điều 55) nhằm khẳng định
vai trò của tài chính công, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức sử dụng tài
chính công và tạo cơ sở hiến định cho việc thiết lập kỷ luật tài chính. Theo
đó, ngân sách Nhà nước, dự trữ quốc gia, quỹ tài chính Nhà nước và các nguồn
tài chính công khác do Nhà nước thống nhất quản lý và phải được sử dụng hiệu
quả, công bằng, công khai, minh bạch, đúng pháp luật. Ngân sách Nhà nước gồm
ngân sách trung ương và ngân sách địa phương, trong đó ngân sách trung ương giữ
vai trò chủ đạo, bảo đảm nhiệm vụ chi của quốc gia. Các khoản thu, chi ngân
sách Nhà nước phải được dự toán và do luật định.
4.2.
Về xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường:
Hiến
pháp cơ bản kế thừa những nội dung về từng lĩnh vực này trong Hiến pháp năm
1992 nhưng được thể hiện một cách tổng quát, mang tính nguyên tắc, còn những
vấn đề và chính sách cụ thể sẽ do luật định (các điều 57, 58, 59, 60, 61, 62
và 63); cụ thể như sau:
- Về
chính sách lao động: Hiến pháp quy định Nhà nước khuyến khích, tạo điều
kiện để tổ chức, cá nhân tạo việc làm cho người lao động. Nhà nước bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động, người sử dụng lao động và tạo điều
kiện xây dựng quan hệ lao động tiến bộ, hài hòa và ổn định (Điều 57).
-
Về chính sách y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân: Hiến pháp quy định Nhà nước, xã hội đầu tư phát triển sự
nghiệp bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của Nhân dân, thực hiện bảo hiểm y tế toàn
dân, có chính sách ưu tiên chăm sóc sức khoẻ cho đồng bào dân tộc thiểu số,
đồng bào ở miền núi, hải đảo và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó
khăn. Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc sức khỏe
người mẹ, trẻ em, thực hiện kế hoạch hóa gia đình (Điều 58).
- Về
chính sách xã hội: Kế thừa các quy định của Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp
tiếp tục quy định Nhà nước, xã hội tôn vinh, khen thưởng, thực hiện chính sách
ưu đãi đối với người có công với nước; Nhà nước tạo bình đẳng về cơ hội để công
dân thụ hưởng phúc lợi xã hội, phát triển hệ thống an sinh xã hội, có chính
sách trợ giúp người cao tuổi, người khuyết tật, người nghèo và người có hoàn
cảnh khó khăn khác (Điều 59).
-
Về chính sách văn hóa: Hiến pháp tiếp tục
quy định Nhà nước, xã hội chăm lo xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; Nhà
nước, xã hội phát triển văn học, nghệ thuật nhằm đáp ứng nhu cầu tinh thần đa
dạng và lành mạnh của Nhân dân; phát triển các phương tiện thông tin đại chúng
nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin của Nhân dân, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc; Nhà nước, xã hội tạo môi trường xây dựng gia đình Việt Nam ấm no,
tiến bộ, hạnh phúc; xây dựng con người Việt Nam có sức khỏe, văn hóa, giàu lòng
yêu nước, có tinh thần đoàn kết, ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân (Điều
60).
-
Về chính sách giáo dục: Hiến pháp quy định
phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, phát triển
nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Nhà nước ưu tiên đầu tư và thu hút các
nguồn đầu tư khác cho giáo dục; chăm lo giáo dục mầm non; bảo đảm giáo dục tiểu
học là bắt buộc, Nhà nước không thu học phí; từng bước phổ cập giáo dục trung
học; phát triển giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp; thực hiện chính sách
học bổng, học phí hợp lý; Nhà nước ưu tiên phát triển giáo dục ở miền núi, hải
đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc
biệt khó khăn; ưu tiên sử dụng, phát triển nhân tài; tạo điều kiện để người
khuyết tật và người nghèo được học văn hoá và học nghề (Điều 61).
-
Về chính sách khoa học và công nghệ: Hiến
pháp quy định phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, giữ vai
trò then chốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nhà
nước ưu tiên đầu tư và khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư nghiên cứu, phát
triển, chuyển giao, ứng dụng có hiệu quả thành tựu khoa học và công nghệ; bảo
đảm quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ; bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Nhà
nước tạo điều kiện để mọi người tham gia và được thụ hưởng lợi ích từ các hoạt
động khoa học và công nghệ (Điều 62).
-
Về chính sách bảo vệ môi trường: Kế thừa
quy định của Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp quy định Nhà nước có chính sách bảo
vệ môi trường; quản lý, sử dụng hiệu quả, bền vững các nguồn tài nguyên thiên
nhiên; bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học; chủ động phòng, chống thiên tai,
ứng phó với biến đổi khí hậu. Nhà nước khuyến khích mọi hoạt động bảo vệ môi
trường, phát triển, sử dụng năng lượng mới, năng lượng tái tạo. Tổ chức, cá
nhân gây ô nhiễm môi trường, làm suy kiệt tài nguyên thiên nhiên và suy giảm đa
dạng sinh học phải bị xử lý nghiêm và có trách nhiệm khắc phục, bồi thường
thiệt hại (Điều 63).
( còn nữa)
Kim Bảng-TTDS