[6] [dansohungnguyen] [slider-top-big] []
You are here: Home / , KHÁI QUÁT VỀ DÂN SỐ-KHHGĐ XÃ HƯNG PHÚ

KHÁI QUÁT VỀ DÂN SỐ-KHHGĐ XÃ HƯNG PHÚ


I.Vị trí địa lý, địa giới
Bản đồ vệ tinh xã Hưng Phú
Hưng Phú là một xã nằm phía nam huyện Hưng Nguyên, trải dọc theo quốc lộ sinh thái du lịch, dọc theo Sông Lam và dãy núi Lam Thành. Phía Đông giáp với xã Hưng Khánh, Hưng Nguyên; Phía Tây giáp với xã Hưng Lam, Hưng Nguyên; Phía nam giáp với xã Đức Quang và Đức Vĩnh huyện Đức Thọ Hà Tĩnh; Phía Bắc giáp với 2 xã Hưng Tiến và Hưng Thắng, Hưng Nguyên. Với diện tích 426,63 ha đất tự nhiên phân bổ trên 8 xóm với 788 hộ và gần 2635 nhân khẩu( số liệu tính đến 31/6/2013), Trong đó có 7 xóm đặc thù chủ yếu là sản xuất nông nghiệp. Mật độ Dân số khá cao 645 người / km2. mật độ dân số của xã có sự phân bỗ khá đồng đều giữa các xóm. Là xã nằm giáp ranh giới với 6 xã của huyện Hưng Nguyên, có đường bộ thuận lợi, cách Bến thủy Vinh 10 km và cách thị trấn Hưng Nguyên gần 15 Km, có Sông Lam chảy qua địa bàn dài 3 Km nên xã Hưng Phú có rất nhiều điều kiện giao lưu để phát triển kinh tế- xã hội. Là xã có nền kinh tế nông nghiệp tương đối phát triển như trồng trọt, chăn nuôi. Đặc biệt là xã không có Giáo dân. Xã Hưng Phú có truyền thống lịch sử lâu đời. các thế hệ người Hưng Phú kế tiếp nhau phát huy truyền thống cần cù, thông minh, sáng tạo xây dựng quê hương đất nước và anh dũng kiên cường, bất khuất chống giặc ngoại xâm bảo vệ tổ quốc. xã Hưng phú có di tích lịch sử văn hóa Quốc gia Trạng Nguyên Bạch Liêu. Bên cạnh đó xã Hưng Phú là một xã nằm ven Sông Lam thuộc vùng lũ của Huyện Hưng Nguyên, xã có nhiều địa hình thấp trũng nên hàng năm bị ảnh hưởng của lũ lụt gây rất nhiều khó khăn cho sản xuất và đời sống. Hệ thống hạ tầng kỷ thuật nói chung còn kém, đặc biệt là hệ thống cấp nước sạch, thoát nước bẩn và thông tin. Là xã thuần nông tích lũy nội bộ thấp do đó việc huy động đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng gặp nhiều khó khăn.

II, Về chính trị, kinh tế-xã hội
Về chính trị: Đảng bộ xã Hưng Phú  có 9  chi bộ cơ sở trong đó có 8 chi bộ nông thôn, 1chi bộ của 2 cơ quan Trạm y tế và Trường mầm non.Tổng số Đảng viên trong toàn Đảng bộ  là 129 Đảng viên. Mặt trận và các tổ chức đoàn thể được xếp loại hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Dưới sự lãnh đạo của BCH Đảng bộ, quản lý điều hành của chính quyền và công tác vận động quần chúng của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội, cùng với nổ lực cố gắng của đội ngũ cán bộ và toàn thể nhân dân, xã Hưng Phú đang tích cực khơi dậy tiềm năng, phát huy tinh thần tự lực, tự cường, xây dựng nông thôn mới. Đến nay đơn vị Hưng Lĩnh đã đát 15/19 tiêu chí xây dựng nông thôn mới. Hệ thống chính trị từng bước được kiện toàn đảm bảo về số lượng cũng như trình độ nghiệp vụ chuyên môn theo chuẩn quy định nhằm đáp ứng nhu cầu nhiệm vụ của địa phương. Xã có 22 đồng chí cán bộ, công chức, viên chức, 8 đồng chí có trình độ đại học, 2 đồng chí cao đẳng, 12 đồng chí trung cấp.
Về Tình hình kinh tế: Thực hiện quan điểm chỉ đạo của Đảng phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm; trong những năm qua, kinh tế của xã đã có bước phát triển khá, chuyển dịch đúng hướng, tạo được những bước chuyển biến klhá quan trọng, cơ bản đạt và vượt các chỉ tiêu Đại hội Đảng bộ đề ra. Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2000 là 8 % đến năm 2012 là 11%. Tổng giá trị sản xuất năm 2012 đạt. Cơ cấu kinh tế của xã có sự chuyển dịch tích cực theo hướng tăng dần tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ, thương mại, giảm dần tỷ trọng các ngành Nông - Lâm nghiệp và Thủy sản.
         - Tỷ trọng ngành Nông - Lâm nghiệp và Thủy sản đã giảm từ 62,2% năm 2000 xuống còn 47,2% năm 2012, bình quân mỗi năm giảm từ 1,5%.
         - Tỷ trọng ngành Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp và xây dựng tăng từ 28,9% năm 2000 lên 41,6% năm 2012, bình quân mỗi năm tăng gần 1,27%
         - Tỷ trọng ngành Thương mại - Dịch vụ có chuyển biến chậm, tăng tù 8,9% năm 2000 lên 11,2% năm 2012.
Về lao động và thu nhập: Tổng số lao động trong độ tuổi lao động của xã năm 2012 có 1.370 người, chiếm 50,6 % Dân sô, trong đó lao động có khả năng lao động là 1,142 người. Thu nhập bình quân đầu người của xã năm 2012 là 14.500.000 đồng/ người/năm, tăng 2,32 lần so với năm 2000. các mục tiêu xóa đói giảm nghèo được đặc biệt quan tâm. Đã huy động được sự tham gia của các cấp các ngành và của toàn dân. Theo đánh giá năm 2012 tỷ lệ hộ nghèo của xã là 10,3%, giảm 9,3% so với năm 2000.
Về xây dựng kết cấu hạ tầng: Đã tranh thủ sự hỗ trợ của Nhà nước cấp trên bằng các chương trình dự án như giao thông, thủy lợi, xây dựng thiết chế văn hóa, cho đến thời điểm hiện nay trên địa bàn xã hệ thống Điện, Đường, Trường, Trạm đã được xây dựng khang trang.
Về văn hóa xã hội:  Các hoạt động văn hóa, thể dục, thể thao đã thực sự mạng lại hiệu quả thiết thực mang tính rộng rãi như: bóng đá, bóng chuyền, cầu lông, đi bộ, tập thể dục dưỡng sinh. Thực hiện phong trào “ Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” trong những năm qua Hưng Phú đã dành được  những thành tựu đáng kể, đến nay đã có 4/8 làng được công nhận làng văn hóa. Trường mầm non đạt chuẩn Quốc gia giai đoạn 1, Trạm y tế được được công nhận trạm chuẩn Quốc gia về y tế đợt I và năm 2005 đang tiến hành thẩm định để công nhận đạt mức giai đoạn II. Hàng năm tỷ lệ hộ gia đình đạt gia đình văn hóa đạt trên 80%. Để đạt được những kết quả như vậy thì mục tiêu thực hiện tốt công tác Dân số KHHGĐ là một nội dung hết sức quan trọng mà Đảng ủy, Chính quyền xã Hưng Phú đã và đang hướng tới để chỉ đạo.
Về lĩnh vực quốc phòng- an ninh: An ninh chính trị trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. Công tác An ninh - quốc phòng được quan tâm đúng mực . Nhiệm vụ huấn luyện quân sự, giáo dục chính trị -Tư tưởng cho lực lượng vũ trang được thực hiện đầy đủ và nghiêm túc. Công tác quản lý quân dự bị động viên và gọi quân nhân lên đường nhập ngũ hàng năm đều  hoàn thành chỉ tiêu trên giao.
III. Quá trình hình thành và phát triển của công tác Dân số- KHHGĐ.
Công tác Dân số của xã Hưng Phú được hình thành và hoạt động từ năm 1995, giai đoạn 1995 – 2000 được gọi là công tác Dân số - KHHGĐ. Trong giai đoạn này nội dung thực hiện chủ yếu là tuyên truyền, vận động, tư vấn cho nhân dân, các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ về chăm sóc SKSS/ KHHGĐ. Thực hiện theo đường lối của Đảng, Pháp luật của nhà nước về chăm sóc SKSS/KHHGĐ. Đảng ủy, Chính quyền đã chỉ đạo và phát động phong trào hưởng ứng thực hiện tốt công tác Dân số -KHHGĐ. Qua công tác phát động đã được toàn thể nhân dân, đặc biệt là các đối tượng trong độ tuổi sinh đẻ hưởng ứng sôi nổi. Đã tổ chức tuyên truyền vận động được 82% số cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ thực hiện các biện pháp tránh thai.
Với những chặng đường đầu tiên phát triển của công tác Dân số- KHHGĐ nhân dân và cán bộ Hưng Phú đã tạo được sự tham gia tích cực của toàn thể xã hội thực hiện nhiệm vụ này. Tỷ lệ phát triển Dân số ở mức dưới 3% trong gia đoạn 1995- 2000. Tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên ở mức dưới 10%. Trong giai đoạn này xã Hưng Phú liên tục năm nào cũng là đơn vị hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Đặc biệt từ năm 2001 đến năm 2004 Công tác tuyên truyền, vận động được đẩy mạnh; nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về công tác Dân số - KHHGĐ được nâng cao; các hoạt động dịch vụ chăm sóc SKSS/KHHGĐ đã được triển khai đồng bộ, có hiệu quả. Tỷ lệ các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ áp dụng các biện pháp tránh thai ngày càng tăng từ 75% năm 2000 đến nay đạt trên 90% góp phần làm giảm tốc độ gia tăng dân số; tỷ lệ giảm sinh cơ bản đạt chỉ tiêu đề ra , kết quả này góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của xã. Năm 2004 Hưng Phú vinh dự được UBND Tỉnh tặng giấy khen cho nhân dân và cán bộ xã 1 năm không có người sinh con thứ 3 trở lên.
Đến năm 2005. Mặc dù trong điều kiện hoạt động lĩnh vực Dân số- KHHGĐ đang có hướng tích cực. Tuy nhiên Nhà nước ta nhận thấy chất lượng giáo dục về gia đình, xây dựng gia đình hạnh phúc. Công tác chăm sóc và giáo dục trẻ em đang có nhiều vấn đề nổi cộm. Từ năm 2005 đến tháng 8/ 2008  Nhà nước ta đã thành lập và cho hình thành mãng Dân số- KHHGĐ trở thành Dân số - Gia đình và Trẻ em. Từ chỗ hoạt động một lĩnh vực Dân số- KHHGĐ, nay trở thành hoạt động ba lĩnh vực Dân số - Gia đình và Trẻ em. Bởi vậy, Đảng ủy, Chính quyền địa phương đã tăng cường công tác chỉ đạo, lãnh đạo để tổ chức thực hiện nhiệm vụ. Giai đoạn 2005 - 2008 tỷ lệ phát triển Dân số ở mức 0,4%. Tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên mức bình quân 14,7%. Tỷ lệ các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ được cung cấp các biện pháp tránh thai đạt trên  90%. Tỷ lệ gia đình văn hóa đạt 80%. Mô hình xây dựng gia đình ít con có 1 hoặc 2 con, no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và phát triển bền vững ngày càng cao. Trẻ em được quan tâm, chăm sóc và giáo dục. Tỷ lệ trẻ em được đến trường đạt 100%. Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng ở mức 5%.
Chặng đường giữa năm 2008, do một số người dân cố tình hiểu sai về Điều 10 của Pháp lệnh Dân số 2003. Từ năm 2008 tỷ lệ sinh con thứ 3 tăng đột biến từ 10,5% năm 2005 lên 21,21% năm 2008 . Chất lượng dân số còn thấp chưa đáp ứng theo từng giai đoạn. Tỷ lệ mất cân bằng giới tính khi sinh có chiều hướng báo động. Chủ trương về chính sách để đáp ứng cho những người mà trước đây được coi là “ ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng” đã bắt đầu được Nhà nước quan tâm hơn. Bởi vậy từ năn 2009  cho đến 2013 lĩnh vực Dân số - KHHGĐ đã được Đảng và Nhà nước ta  hết sức quan tâm, chuyển lĩnh vưc gia đình sang lĩnh vực văn hóa hoạt động. Trẻ em chuyển sang chính sách để tập trung chỉ đạo công tác Dân số- KHHGĐ.
Trước những thách thức như vậy nên địa phương đã tập trung ban hành nhiều văn bản để chỉ đạo chuyên ngành về lĩnh vực Dân số - KHHGĐ. Chỉ đạo các ban ngành, đoàn thể làm tốt công tác phối hợp để tuyên truyền cho người dân hiểu về chính sách Dân số KHHGĐ.
Thực hiện tốt công tác Dân số - KHHGĐ là mấu chốt quan trọng để phát triển kinh tế, Chính trị, văn hóa- xã hội ở địa phương nói riêng và trên toàn xã hội nói chung.
Do đó tổ chức bộ máy làm công tác Dân số -KHHGĐ là một hệ thông xuyên suốt từ Trung Ương đến địa phương. Hệ thống bộ máy được chia thành 4 cấp thứ tự từ Tổng cục Dân số - KHHGĐ. Chi cục Dân số- KHHGĐ. Trung tâm Dân số -  KHHGĐ. Ban chỉ đạo thực hiện công tác Dân số-KHHGĐ các xã, phường, Thị Trấn.
Căn cứ vào hệ thống tổ chức bộ máy làm công tác Dân số - KHHGĐ do Nhà nước ta quy định. Hình thành tổ chức bộ máy của ban chỉ đạo thực hiện công tác Dân số - KHHGĐ cấp xã. Xây dựng mạng lưới chuyên trách và đội ngũ cộng tác viên Dân số - KHHGĐ có đủ năng lực, trình độ, tâm huyết với nghề để thực hiện nhiệm vụ đề ra là vấn đề cấp bách mà địa phương quan tâm. Hàng năm đã tổ chức kiện toàn kịp thời ban chỉ đạo thực hiện công tác Dân số - KHHGĐ theo từng giai đoạn công tác.
Trong suốt những năm qua xã HưngPhú luôn duy trì và thực hiện tốt các mục tiêu Dân số- KHHGĐ. Tỷ lệ phát triển dân số ở mức ổn định 0,6%. Tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên mức dưới 10%. Tỷ lệ các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ thực hiện các biện pháp tránh thai hiện đại chiếm 95%. Tổng số con trung bình cho một phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ từ 1,4 đến 2,0 con, đạt mức sinh thay thế. Tỷ lệ mất cân băng giới tính khi sinh bình quân 105 BT/ 100BG. Tỷ lệ các bà mẹ mang thai và trẻ em sinh ra đều được sàng lọc để phát hiện, can thiệp một số dị tât bẩm sinh. Với những kết quả như vậy, hàng năm đều được Trung Tâm Dân số- KHHGĐ huyện Hưng Nguyên (tiền thân trước đây là ủy ban Dân số Gia đình và Trẻ em) đánh giá hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Một số chỉ tiêu về dân số qua các năm
Chỉ tiêu
Năm
2003
2005
2007
2009
2012
Dân số TB (người)
2.710
2.715
2.730
2.726
2.615
Tỷ suất sinh thô ‰
11
11,7
8,5
9,7
14
Tỷ lệ sinh con thứ 3+
12,9
10,5
17,39
9,3
20
Tỷ lệ tăng tự nhiên ‰
5,7
3,5
6,7
4,2
3,4

IV. Quá trình hình thành và tổ chức bộ máy Ban chỉ đạo và bộ máy chuyên trách.
Ban Dân số - KHHGĐ xã Hưng Phú được thành lập từ năm 1995 theo Nghị Định số 42/CP, ngày 21/61993 của Chính phủ quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn tổ chức bộ máy và lề lối làm việc của Uỷ ban Quốc gia Dân số và kế hoạch hóa gia đình.  Do ông Hồ Xuân Tuệ nguyên là chủ tịch UBND xã làm trưởng ban và bổ nhiệm Bà Nguyễn Thị Hương làm Cán bộ chuyên trách từ năm 1995 đến năm 2000, cùng 8 cộng tác viên là các chi hội trưởng phụ nữ của 8 xóm kiêm nhiệm.
Từ năm 2001 đến năm 2009 do đại hội lại Đảng bộ và ông Ngô Minh Hạ làm chủ tịch UBND xã kiêm trưởng Ban Dân số- KHHGĐ. Còn chuyên trách vẫn giữ nguyên đến tháng 7/2009 thì phải nghỉ do không đủ tiêu chuẩn theo Thông tư 05/2008/BYT, ngày 14/5/2008 của Bộ Ytế về việc hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức bộ máy Dân số-KHHGĐ ở địa phương.
          Từ năm 2009 đến 2013 Ban chỉ đạo thực hiện công tác Dân sô -KHHGĐ được thành lập theo công văn số 223/UBND- DS của UBND huyện Hưng Nguyên ngày 22/9/2009 vê việc thành lập Ban chỉ đạo thực hiện công tác Dân số-KHHGĐ các cấp. UBND xã đã ra Quyết định số 33/QĐ-UBND, ngày 27/8/2009 về việc thành lập Ban chỉ đạo thực hiện công tác Dân số- KHHGĐdo ông Phạm Thế Sơn làm chủ tịch UBND xã kiêm trưởng Ban chỉ đạo thực hiện công tác Dân số -KHHGĐ. Và bổ nhiệm bà Nguyễn Thị Thơ làm cán bộ chuyên trách. Cùng 10 thành viên là trưởng Trạm y tế, trưởng các đoàn thể, CB Tư pháp, CB Văn phòng, Trưởng công an,  CB Tài chính, cán bộ Văn hóa làm Ban viên và mạng lưới cộng tác viên của 8 xóm. Ban chỉ đạo đã đề ra quy chế hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ được giao của xã. Đến ngày 03/9/2013, bà Nguyễn Thị Thơ trở thành viên chức Dân số - KHHGĐ xã theo Quyết định số 77/2012/QĐ - UBND ngày 19/10/2012 của Uỷ ban nhân dân Tỉnh Nghệ An. Về việc bố trí cán bộ chuyên trách Dân số - kế hoạch hóa gia đình xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
Ban chỉ đạo thực hiện công tác Dân số- KHHGĐ xã Hưng Phú hiện thời gồm các ông bà sau:
TT
Họ và tên
Chức vụ
Ghi chú
1
Phạm Thế Sơn
 Chủ tịch UBND xã
Trưởng ban
2
Hoàng Văn Long
Trạm trưởng trạm y tế
Phó  ban
3
Nguyễn Thị Thơ
CBChuyên trách DS/KHHGĐ
Phó ban trực
4
Nguyễn Viết Bắc
Cán bộ Tư pháp - Hộ Tịch
Ban viên
5
Hồ Văn Ngũ
Chủ tịch Hội CCB
Ban viên
6
Phạm Thế Vinh
Chủ tịch MTTQ
Ban viên
7
Ngô Phú Thường
CB văn hoá
Ban viên
8
Trần Đức Lam
CB Tài chính
Ban viên
9
Hồ Xuân Nghĩa
Văn phòng - Thống kê
Ban viên
10
Nguyễn Văn Phượng
Trưởng công an
Ban viên
    11
Ngô Minh Hiếu
Chủ tịch Hội ND
Ban viên
 12
Trần Thị Hưng
Chủ tịch Hội LH PN
Ban viên



Xã Hưng Phú có 8 cộng tác viên phân bổ trên 8 xóm, người làm CTV lâu năm nhất là 18 năm, người làm ít năm nhất là 1 năm. Các Cộng tác viên năng nổ nhiệt tình và đầy trách nhiệm. Được tập huấn nghiệp vụ, bảng kiểm viên uống tránh thai và tham gia đầy đủ các lớp tập huấn do cấp trên tổ chức. Đội ngũ Cộng tác viên qua các thời kỳ cũng có nhiều sự thay đổi. Và hiện nay đang hoạt động ổn định, hiệu quả.
Về mạng lưới Cộng tác viên Dân số - KHHGĐ hiện thời như sau:
TT
Họ và tên
Xóm
1
Phạm Thị Loan
1
2
Phạm Thị Tâm
2
3
Lê Thị Dung
3
4
Nguyễn Thị Hương
4
5
Bùi Thị Hoa
5
6
Nguyễn Thị Bé
6
7
Trần Thị Tuyết
7
8
Nguyễn Thị Hồng
8

*Từ 1995 đến nay bộ máy làm công tác Dân số có nhiều thay đổi
- Trưởng ban Dân số:
Từ năm 1995 đến năm 2000: Ông Hồ xuân Tuệ - Chủ tịch UBND
Từ năm 2001 đến năm 2008: Ông Ngô Minh Hạ - Chủ tịch UBND
Từ năm 2009 đến nay:           Ông Phạm Thế Sơn - Chủ tịch UBND
           - Cán bộ chuyên trách Dân số - Kế hoạch hoá gia đình qua các thời kỳ:
Năm 1995 đến 2008: Bà Nguyễn Thị Hương
Năm 2009 đến nay:    Bà Nguyễn Thị Thơ.
V, Các thành tích khen thưởng đã đạt được:
* Cấp Xã:
- Năm 1995,1996,1997, 2003, 2005, 2006 được Chủ tịch UBND huyện  tặng giấy khen nhân dân và cán bộ xã có thành tích xuất sắc trong công tác Dân số- KHHGĐ.
- Năm 1996, được Chủ tịch UBND huyện tặng giây khen có thành tích xuất sắc trong công tác Dân số - KHHGĐ.
- Năm 2000, được Chủ tịch UBND huyện tặng giây khen có thành tích xuất sắc trong công tác Dân số - KHHGĐ
- Kết quả năm 2004 được chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An tặng bằng khen cho nhân dân và cán bộ xã Hưng Phú có thành tích xã không có người sinh con thứ 3 trở lên.
- Năm 2005, Được UBDSGĐ và TE tặng giấy khen có thành tích trong công tác CS và bảo vệ TE.
- Năm 2009 chủ tịch UBND huyện Hưng Nguyên tặng giấy khen cho nhân dân và cán bộ xã Hưng Phú có thành tích giảm nhanh tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên.
 - Năm 2011 chủ tịch UBND huyện Hưng Nguyên tặng giấy khen cho nhân dân và cán bộ xã Hưng Phú có thành tích giảm tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên theo Quyết định 105 của UBND Tỉnh Nghệ An.
- Năm 2013 chủ tich UBND huyện Hưng Nguyên tặng giấy khen cho nhân dân và cán bộ Hưng Phú có thành tích xuất sắc trong 10 năm thực hiện Pháp lệnh Dân số 2003.
* Cấp xóm:
- Năm 1999 chủ tịch UBND huyện Hưng Nguyên tặng giấy khen cho cán bộ và nhân dân xóm 2 năm năm liên tục không có người sinh con thứ 3 trở lên.
- Năm 2007 chủ tịch UBND huyện Hưng Nguyên tặng giấy khen cho cán bộ và nhân dân xóm 6 hai năm liên tục không có người sinh con thứ 3 trở lên.
- Năm 2009 chủ tịch UBND huyện Hưng Nguyên tặng giấy khen cho nhân dân và cán bộ xóm 1, xóm 4 hai năm liên tục không có người sinh con thứ 3 trở lên. Xóm 6 bốn năm liên tục không có người sinh con thứ 3 trở lên.
- Năm 2010 chủ tịch UBND huyện Hưng Nguyên tặng giấy khen cho nhân dân và cán bộ xóm 6 năm năm liên tục không có người sinh con thứ 3 trở lên, xóm 8 mười lăm năm liên tục không có người sinh con thứ 3 trở lên.
- Năm 2011 chủ tịch UBND huyện Hưng Nguyên tặng giấy khen cho cán bộ và nhân dân xóm 2, xóm 5 hai năm liên tục không có người sinh con thứ 3 trở lên.
Dân số ổn định, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, đời sống của nhân dân từng bước được nâng lên. Cuộc sống của người dân nơi đây đang từng ngày thay đổi. Cho đến thời điểm hiện nay các công trình điện, đường, trường, trạm đã được xây dựng khang trang. Đảng bộ xã Hưng Phú nhiều năm liền được xếp loại trong sạch vững mạnh, chính quyền hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Và cùng với nhân dân toàn huyện Đảng bộ và nhân dân xã Hưng Phú đang trên đà phấn đấu xây dựng thành công chương trình Nông thôn mới./.

 NGUỒN TỪ BAN CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN CÔNG TÁC DÂN SỐ - KHHGĐ XÃ.