I.Vị trí địa lý, địa giới.
Hưng Long là một xã vùng trũng, nằm ở phía Tây Nam huyện Hưng
Nguyên. Trung tâm xã cách Huyện lỵ khoảng 15 km, nằm ngay cạnh đường Tỉnh lộ
ven sông Lam-Tuyến giao thông huyết mạch của xã. Hưng Long có ranh giới hành
chính chung với các xã: Phía Bắc giáp Nam Cát (Nam Đàn), phía Nam giáp xã Nam
Trung (Nam Đàn) và sông Lam, Phía Đông giáp xã Hưng Xá, Phía Tây giáp xã Hưng
Lĩnh.
Địa hình xã Hưng Long
cao dần từ Bắc xuống Nam .
Địa bàn thấp trũng nên hàng năm thường bị ngập úng. Mạng lưới giao thông đường
bộ kết hợp với giao thông thủy lợi phân cách đồng ruộng thành nhiều vùng.
Bản đồ vệ tinh xã Hưng Long |
Hưng Long mang đặc điểm chung của khí hậu miền trung là
nhiệt đới gió mùa. Đặc trưng khí hậu ở Hưng Long là biên độ nhiệt giữa các
tháng trong năm lớn, chế độ mưa tập trung trùng với mùa bão, sự hoạt động của
gió Phơn Tây Nam và gió mùa Đông Bắc biểu hiện rõ bản chất nóng ẩm của khí hậu
nhiệt đới gió mùa: Tiềm năng nhiệt lượng phong phú có tác dụng đến sinh trưởng,
phát triển của cây trồng và vật nuôi.
Nguồn nước phục vụ sản xuất nông nghiệp lấy từ các trạm bơm,
về cơ bản đáp ứng cho sản xuất nông nghiệp. Với tổng diện tích tự nhiên là
463,43 ha. Trong đó đất nông nghiệp là 290,57 ha (62,7%), đất phi nông nghiệp
là 168,5 ha (36,14%) và đất chưa sử dụng là 5,36 ha (1,16%).
Xã Hưng Long có 1.335
hộ với 6.117 nhân khẩu: Toàn xã có 10 xóm được phân bổ trên các xóm gồm: Xóm
7A; 7B; xóm 8; 9A; 9B; 10;11A; 11B; 12; 16. Trong đó có 40 hộ, 178 nhân khẩu theo đạo
thiên chúa giáo; có 9 xóm sản xuất nông nghiệp, 1 xóm làm nghề vận tải trên
sông nước.
Hưng Long là mảnh đất có nhiều di tích lịch sử văn hóa,
trong đó phải kể đến Chùa Long Hoa thời Nguyễn. Trên đất Hưng Long có nhiều
chùa chiền, nhưng do chiến tranh tàn phá ý thức của con người nên hiện nay chỉ
còn lại chùa Long Hoa. Chùa Long Hoa ở xóm Xuân Phú gần bờ sông Lam. Chùa được
xây dựng vào thời Nguyễn gồm hai tòa hình chữ nhị, nay chỉ còn lại tòa thượng,
trước đây chùa có rất nhiều sư tăng.
Đền Xuân Hòa: Đền ở phía Đông làng Xuân Hòa trước kia có cây
trồi to cao mọc trước đền. Nơi đây là địa điểm tập trung của đoàn biểu tình
trước khi tiến về phủ Hưng Nguyên đấu tranh đòi quyền lợi ngày 12 tháng 09 năm
1930. Cây trôi là nơi 2 chiến sỹ cộng sản là Nguyễn Vỹ và Nguyễn Hỷ đã dũng cảm
treo lên cờ Đảng kêu gọi nhân dân vùng lên đấu tranh trong cao trào xô viết
Nghệ Tĩnh. Đến năm 1946 đền Xuân Hòa còn là địa điểm sản xuất vũ khí phục vụ
cho chiến trường đánh Pháp. Đền Xuân Hòa đã bị pháp hủy, nay đã khôi phục lại
và được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Tỉnh.
Bên cạnh những thuận lợi cơ bản, Hưng Long cũng có những khó
khăn nhất định đó là: Với địa bàn là xã đông dân, có đường du lịch ven sông Lam,
có Đê 42 đi qua nên khả năng di dân vào
địa bàn là rất lớn. Là xã có một bộ phận nhân dân theo
đạo thiên chúa, công tác tuyên truyền, vận động thực hiện chủ trương chính sách
của Đảng và Pháp Luật của Nhà nước đặc biệt là chính sách Dân số-KHHGĐ còn gặp
nhiều khó khăn.
II. Tình hình chính trị- kinh
tế -xã hội:
Qua nhiều năm hình thành và phát triển
đến nay Hưng Long đã giành được nhiều thành quả quan trọng trên tất cả các lĩnh
vực Chính trị- Kinh tế, Văn hóa- Xã hội, Quốc phòng-An ninh.
Về Chính trị:
Công tác Đảng, công tác chính trị: Đảng bộ xã có 12 chi bộ
với 235 đảng viên, là Đảng bộ trong sạch vững mạnh nhiều năm liền, Chính quyền
và các ban ngành liên quan đến Mặt trận hàng năm được đánh giá là hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ. Đảng ủy, chính quyền đang tập trung chỉ đạo, huy động nguồn
lực để xây dựng thành công Chương trình Mục tiêu Quốc gia nông thôn mới. Các
Chỉ thị, Nghị quyết được triển khai đến tận cán bộ đảng viên và nhân dân.
Về Kinh tế:
Tốc độ tăng trưởng
kinh tế hàng năm là 12,3% thu nhập bình quân đầu người năm 2012 là 17,3 triệu
đồng. Tỷ lệ hộ nghèo năm 2013 là 11,9%. Nhân dân lao động Hưng Long cần cù
trong lao động, sản xuất, dũng cảm kiên cường trong các cuộc kháng chiến.
Hưng Long đã triển khai kế hoạch đồng bộ như; Bố trí hợp lý
cơ cấu cây trồng theo hướng coi trọng hiệu quả kinh tế, tập trung thâm canh
trên những diện tích chủ động nước, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào
sản xuất nông nghiệp, loại bỏ giống cũ, đưa các giống lúa lai vào sản xuất cho
năng suất lúa bình quân đạt 120,5tạ/ha. Năm 2006 tăng trưởng kinh tế là 13%, thu
nhập bình quân đầu người là 16,3triệu đồng/người/năm. Đến năm 2012 tăng trưởng
kinh tế là 14%, thu nhập bình quân đầu người là 17,3 triệu đồng/người/năm. Tỷ
lệ hộ nghèo là 11,9%, tỷ lệ gia đình đạt danh hiệu “Gia đình văn hóa” là 87,5%.
Đưa các giống con vật nuôi cho năng suất giá trị cao, ngoài
Trâu, Bò, Lợn, Gà còn phát triển thêm bò thịt, bò sinh sản, gia cầm theo hướng
quy mô lớn đem lại hiệu quả kinh tế cao. Năm 2012 tổng đàn gia súc gia cầm là:
Đàn Bò là 1.500 con, đàn Trâu 150 con, đàn Lợn 1.500 con, đạt 100% kế hoạch.
Ngành nghề dịch vụ đều
phát triển mạnh. Các lao động mộc, nề, sơn, trong xã đã phát huy hiệu
quả. Đặc biệt là ngành nghề mây tre đan dân dụng ở xóm 12 đã góp phần giải
quyết việc làm tăng thu nhập cho hộ gia đình. Lực lượng lao động đi làm trong
và ngoài tỉnh, lao động xuất khẩu tăng. Lao động trong tỉnh 272 lao động, lao
động ngoài tỉnh 210 lao động, lao động xuất khẩu là 428 lao động
đa số ở các thị trường có thu nhập cao.
Về văn hóa xã hội -Thể dục thể thao:
Cùng với tăng trưởng kinh tế, giáo dục
cũng có nhiều bước tiến đáng kể. Phát huy nhân tố con người và vì con người là
2 tiêu chí và 2 động lực được Đảng bộ coi trọng, nhằm đưa nhân dân Hưng Long
thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu tiến tới trình độ văn minh. Mục tiêu giáo dục được
coi là mục tiêu then chốt, tỷ lệ học sinh đậu vào các trường đại học, cao đẳng
với điểm số cao, các em đậu vào cấp 3 đạt kết quả cao.
Hoạt động văn nghệ, thể dục thể thao
ngày càng có nhiều bước chuyển biến mới, các hoạt động văn nghệ trong xã cũng
được chú trọng. Vì vậy đã tạo nên bầu không khí lành mạnh, phấn khởi, tươi vui
làm phong phú thêm đời sống tinh thần và làm dịu đi những lo toan vất vả đời
thường của bà con nhân dân sau những ngày làm việc mệt nhọc.
Về Quốc phòng-An Ninh:
Nhiệm vụ huấn luyện quân sự, giáo dục chính trị -Tư
tưởng cho lực lượng vũ trang được thực hiện đầy đủ và nghiêm túc.
Công tác quản lý quân dự bị động viên và gọi quân nhân lên đường nhập
ngũ hàng năm đều hoàn thành chỉ tiêu trên giao.
Công tác An ninh trật tự được giữ vững, các vụ việc hình sự
giảm, an ninh thôn xóm được đảm bảo, không có các vụ trọng án xảy ra. Tuy nhiên,
Hưng Long vẫn chưa thể đẩy lùi tình trạng buôn bán tàng trữ và sử dụng ma túy. Năm
2013 công an xã Hưng Long đã bắt được 5 vụ buôn bán ma túy.
III. Quá trình hình thành và
phát triển của công tác Dân số - KHHGĐ
Công tác Dân số - KHHGĐ luôn được xác định là một bộ phận
quan trọng trong chiến lược phát triển đất nước, một trong những vấn đề kinh
tế- xã hội hàng đầu của quốc gia, vì thế mà Đảng uỷ, UBND xã rất quan tâm tới
công tác Dân số- KHHGĐ nên trong những năm qua đã ban hành nhiều văn bản chỉ
đạo thực hiện công tác Dân số - KHHGĐ như:
Đảng uỷ đã quán triệt trong toàn Đảng bộ Nghị Quyết số 04-
NQ/HNTW ngày 14/01/1993 của Hội nghị lần thứ tư ban chấp hành trung ương Đảng
khoá VII và từ đó thành lập Ban Dân số - KHHGĐ xã và ban hành các Nghị Quyết
chuyên đề về thực hiện công tác Dân số - KHHGĐ trong từng giai đoạn.
UBND xã đã ban hành các Quyết Định, kế hoạch và các công văn
triển khai công tác Dân số - KHHGĐ, chăm sóc sức khỏe sinh sản, cùng nhiều văn
bản chỉ đạo công tác phối hợp với các ban ngành đoàn thể. Vì vậy, mà trong 20
năm qua công tác Dân số - KHHGĐ trên địa bàn xã Hưng Long đã giành được nhiều
kết quả quan trọng và đạt được chỉ tiêu giảm sinh và đạt mức sinh thay thế. Tuy
nhiên, với địa bàn là xã có đặc thù sông nước tỷ lệ sinh và sinh con thứ 3 trở
lên không có tính bền vững. Vấn đề “trọng nam khinh nữ” muốn có con trai để nối
dõi tông đường, vấn đang còn tồn tại trong nhận thức của nhân dân, vì thế mà
công tác tuyên truyền, vận động thực hiện tốt chính sách Dân số - KHHGĐ gặp rất
nhiều khó khăn.
Năm 1993 Ban Dân số - KHHGĐ xã
Hưng Long được thành lập theo Nghị Định số 42/CP, ngày 21/6/1993 của Chính phủ
quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn tổ chức bộ máy và lề lối làm việc
của Uỷ ban Quốc gia Dân số-KHHGĐ. Sau khi được thành lập, với sự nhiệt tình của
đội ngũ cán bộ làm công tác Dân số - KHHGĐ được sự quan tâm, chỉ đạo của các
cấp, sự phối hợp chặt chẽ của các ban ngành có liên quan nên công tác Dân số-KHHGĐ
có được những chuyển biến rõ rệt. Thay đổi nhận thức của người dân trong việc
thực hiện sinh đẻ có kế hoạch và chất lượng cuộc sống được nâng lên. Cụ thể là:
Năm 1993: Tổng nhân khẩu 5.258
người, số hộ 1.253, tổng sinh 35 cháu tỷ suất sinh 18,3%o; Con thứ 3 trở lên 5
cháu chiếm 12,5%, tỷ suất tăng dân số tự nhiên 5,8%o; Số phụ nữ trong độ tuổi
sinh đẻ có chồng 1.334 người, sử dụng các BPTT hiện đại là 678 ca, trong đó đình sản 0 ca.
Năm 1997: Tổng nhân khẩu 5.783, số
hộ 1.189, tổng sinh 159, tỷ suất sinh 11,79 %o; Con thứ 3 trở lên 5 cháu chiếm
7,35%, tỷ suất tăng dân số tự nhiên 6,79%o; Số phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ 1.427
người, sử dụng BPTT hiện đại là 210 ca, trong đó đình sản là 4 ca.
Năm 2000: Tổng nhân khẩu 5.856, số
hộ 1.297, tổng sinh 57 cháu, tỷ suất sinh 9,8 %o; Con thứ 3 trở lên 6 cháu
chiếm 10,53%, tỷ suất tăng dân số tự nhiên 5,1%o; Số phụ nữ trong độ tuổi sinh
đẻ có chồng là 846 người, sử dụng các BPTT hiện đại là 240 ca, trong đó đình
sản là 2 ca.
Năm 2003 thực hiện Nghị Định số
94/CP, ngày 11/11/2002 của Chính phủ quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
và cơ cấu tổ chức của Uỷ ban Dân số, Gia đình & Trẻ em. Ban Dân số - KHHGĐ
xã Hưng Long được đổi thành Ban Dân số, Gia đình & Trẻ em.
Sau 10 năm công tác Dân số - KHHGĐ
đã có nhiều thay đổi Tổng tỷ suất sinh 18,3%o năm 1993 đến năm 2000 còn
9,8%o, con thứ 3 trở lên 5 cháu chiếm
12,5% năm 1993, đến năm 2000 còn 10,53 %, tỷ suất tăng dân số tự nhiên 4,5%o;
Năm 2005: Tổng nhân khẩu là 5.918,
số hộ 1.297, tổng sinh 72 cháu, tỷ suất sinh 11,4%o; Con thứ 3 trở lên 16 cháu
chiếm 20,3 %, tỷ suất tăng dân số tự nhiên 5,1%o;
Năm 2006: Tổng nhân khẩu 5.869, số
hộ 1.322, tổng sinh 58 cháu, tỷ suất sinh 9,9%o; Con thứ 3 trở lên 51 cháu
chiếm 33,1%, tỷ suất tăng dân số tự nhiên 9,5%o;
Năm 2007: Tổng nhân khẩu 5.524,
tổng sinh 55 cháu, tỷ suất sinh 9,9%o; Con thứ 3 trở lên 7 cháu chiếm 12,72%, tỷ
suất tăng dân số tự nhiên 5,9%o;
Đến năm 2008 Ban Dân số, Gia đình
& Trẻ em xã Hưng Long được đổi thành Ban Dân số - Kế hoạch hoá gia đình, theo Thông tư 05/2008/TT-BYT, ngày 14/5/2008 Về việc hướng dấn chức
năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức bộ máy Dân số - KHHGĐ ở địa phương.
Năm 2008: Tổng nhân khẩu 5.876, tổng hộ 1.322,
tổng sinh 54 cháu, tỷ suất sinh 10,5%o; Con thứ 3 trở lên 6 cháu chiếm 14,5%, tỷ
suất tăng dân số tự nhiên 6,5%o;
Năm 2009: Tổng nhân khẩu 5.589,
tổng hộ 1.238 tổng sinh 56 cháu, tỷ suất sinh 8,5%o; con thứ 3 trở lên 11cháu
chiếm 12,5%, tỷ suất tăng dân số tự nhiên 6,3%o;
Năm 2010: Tổng nhân khẩu 5.176,
tổng hộ 1.332, tổng sinh 38 cháu, tỷ suất sinh 7,1%o; Con thứ 3 trở lên 4 cháu
chiếm 10,53%, tỷ suất tăng dân số tự nhiên 6,7%o;
Năm 2011: Tổng nhân khẩu 5.191, tổ
hộ 1.332 tổng sinh 65 cháu, tỷ suất sinh 12,3%o; Con thứ 3 trở lên 12 cháu
chiếm 18,46%, tỷ suất tăng dân số tự nhiên 7,5%o;
Năm 2012: Tổng khẩu 5.129, số hộ 1.323, tổng
sinh 75 cháu, tỷ suất sinh 14,4%o; con thứ 3 trở lên 16 cháu chiếm 21,33%, tỷ
suất tăng dân số tự nhiên 6,5%o;
9 tháng đầu năm 2013 toàn xã có: 1.323 hộ. và 5.129 nhân khẩu. Tổng sinh 40 cháu, giảm 6 cháu so cùng kỳ
2012; con thứ 3 trở lên 7 cháu giảm 2 cháu so cùng kỳ 2012.
Đến năm 2013 công tác Dân số - KHHGĐ đã dần ổn định công tác
vận động ký cam kết thực hiện Chính sách Dân số - KHHGĐ theo Quyết Định 76/2012
của UBND tỉnh Nghệ An đạt 98,6%. Xử lý 98% các trường hợp vi phạm Chính sách Dân số-KHHGĐ.
Mô hình gia đình nhỏ có 1 đến 2
con được người dân thực hiện một cách tự nguyện, đời sống nhân dân ngày càng
được nâng cao, góp phần xoá đói, giảm nghèo tiến tới thực hiện tốt các tiêu chí
xây dựng nông thôn mới.
IV. Quá trình hình thành tổ chức bộ máy của
Ban chỉ đạo và mạng lưới Chuyên trách Dân số - KHHGĐ ở xã.
Năm 1993 Ban Dân số - KHHGĐ xã
Hưng Long được thành lập theo Nghị Định số 42/CP, ngày 21/61993 của Chính phủ
quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn tổ chức bộ máy và lề lối làm việc
của Uỷ ban Quốc gia Dân số và kế hoạch hóa gia đình. Do ông Phan Văn Thanh Chủ
tịch UBND xã làm Trưởng Ban, ông Nguyễn Văn Hùng làm cán bộ chuyên trách Dân số-KHHGĐ, các ông, bà trưởng các ban ngành, đoàn thể có liên quan làm
thành viên và mạng lưới cộng tác viên của 10 xóm.
Đến năm 2002 thực
hiện Nghị Định số 94/CP, ngày 11/11/2002 của Chính phủ quy định về chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Uỷ ban Dân số, Gia đình & Trẻ em.
Ban Dân số-KHHGĐ xã Hưng Long được đổi thành Ban Dân số, Gia đình & Trẻ em.
Do ông Võ Hồng Sơn- Phó Chủ tịch UBND xã làm Trưởng Ban, ông Nguyễn Văn Hùng
làm cán bộ chuyên trách Dân số-KHHGĐ.
Đến năm 2008-2009 Ban Dân số- KHHGĐ xã Hưng
Long do Ông Võ Hồng Sơn -Phó Chủ Tịch UBND xã làm Trưởng ban, Bà Phan Thị Thu làm
cán bộ chuyên trách Dân số-gia đình & Trẻ em.
Và đến năm 2010- 2011 Ban Dân số,
Gia đình & trẻ em xã Hưng Long được đổi thành Ban Dân số - Kế hoạch hoá gia đình, theo Thông tư 05/2008/TT-BYT, ngày 14/5/2008
về việc hướng dấn chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức bộ máy Dân số-KHHGĐ ở
địa phương. Do ông Hoàng Nghĩa Nhân- Phó Chủ tịch UBND xã làm Trưởng Ban, bà
Phan Thị Hiền làm cán bộ chuyên trách Dân số-KHHGĐ, các ông, bà trưởng các ban ngành, đoàn thể có liên quan làm
thành viên và mạng lưới cộng tác viên của 10 xóm.
Ban CĐTH công tác Dân số-KHHGĐ xã Hưng Long |
Ban chỉ đạo thực hiện công tác Dân số - KHHGĐ xã Hưng Long do các thành viên thuyên chuyển công
tác nên cũng có sự thay đổi. Từ tháng11 năm 2011 đến nay do bà Phan Thị Bé
làm cán bộ chuyên trách và ông Hoàng
Nghĩa Nhân Phó chủ tịch UBND làm trưởng ban. Ban chỉ đạo thực hiện công tác Dân
số- KHHGĐ xã Hưng Long gồm các ông bà
sau:
TT
|
Họ
và tên
|
Chức
vụ
|
Nhiệm
vụ
|
1
|
Hoàng Nghĩa Nhân
|
Phó Chủ tịch UBND xã
|
Trưởng ban
|
2
|
Hồ Văn Hưng
|
Trạm trưởng trạm y tế
|
Phó ban
|
3
|
Phan Thị Bé
|
CBChuyên trách DS-KHHGĐ
|
Phó ban trực
|
4
|
Ngô Hồng Lĩnh
|
Cán bộ Tư pháp - Hộ tịch
|
Ban viên
|
5
|
Nguyễn Dương
Liệu
|
Chủ tịch Hội CCB
|
Ban viên
|
6
|
Nguyễn văn Sơn
|
Chủ tịch MTTQ
|
Ban viên
|
7
|
Hoàng Trọng Cát
|
Ban viên
|
|
8
|
Nguyễn Thị Thanh
|
CB Tài chính
|
Ban viên
|
9
|
Nguyễn Thị Tuyết
|
Văn phòng -Thống kê
|
Ban viên
|
10
|
Trương Đình
Thành
|
Trưởng công an
|
Ban viên
|
11
|
Nguyễn Văn Thắng
|
Chủ tịch
|
Ban viên
|
12
|
Nguyễn Thị Thu
|
Chủ tịch Hội LH
PN
|
Ban viên
|
13
|
Thái Thị Thảo
|
CB Kế toán
|
Ban viên
|
Cán bộ chuyên trách Dân số - Kế hoạch hoá gia đình qua các thời kỳ:
Năm 1993 – 2008: Ông
Nguyễn văn Hùng
Năm 2008– 2010: Bà Phan
Thị Thu
Năm 2010- 2011: Ông Phan Thị Hiền
Năm 2011- Nay: Bà Phan Thị Bé
Xã Hưng Long có 10 cộng tác viên/10 xóm. Các cộng tác viên
năng nổ nhiệt tình và đầy trách nhiệm, được tập huấn nghiệp vụ và tập huấn bảng
kiểm viên uống tránh thai và tham gia đầy đủ các lớp tập huấn do cấp trên tổ
chức. Các cộng tác viên theo thời gian cũng có sự thay đổi, người làm Cộng tác
viên Dân số-KHHGĐ lâu năm nhất là 8 năm, người làm ít năm nhất là 1 năm.
V. Thành tích khen thưởng
1, Thành tích khen thưởng của xã:
Năm 2006: Chủ tịch UBND huyện Hưng Nguyên tặng giấy khen cho
nhân dân và cán bộ xã Hưng Long có mức sinh giảm 5% .
Năm 2010: Chủ tịch UBND huyện Hưng Nguyên tặng giấy khen cho
nhân dân và cán bộ xã Hưng Long có mức sinh giảm 5%
2, Thành tích khen thưởng của xóm :
Năm 2006: Xóm 10, 9A- Chủ tịch UBND Huyện Hưng Nguyên tặng
giấy khen cho nhân dân và cán bộ xóm đạt 2 năm liên tục xóm không có người sinh
con thứ 3 trở lên.
Năm 2011: Xóm 9A, 7B, 10, 11A - Chủ tịch UBND Huyện Hưng
Nguyên tặng giấy khen cho nhân dân và cán bộ xóm đạt 2 năm liên tục xóm không
có người sinh con thứ 3 trở lên.
Năm 2012: Xóm 11B, 11A - Chủ tịch UBND huyện Hưng Nguyên
tặng giấy khen cho nhân dân và cán bộ xóm đạt 2 năm liên tục xóm không có người
sinh con thứ 3 trở lên.
Năm 2010-2012: Xóm 10 - Chủ tịch UBND huyện Hưng Nguyên tặng
giấy khen cho nhân dân và cán bộ xóm đạt 3 năm liên tục xóm không có người sinh
con thứ 3 trở lên.
Có thể nói rằng, bằng sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của cấp
ủy Đảng, chính quyền, sự phối hợp chặt chẽ của các ban ngành đoàn thể, sự vào
cuộc của cả hệ thống chính trị, sự nỗ lực cố gắng của đội ngũ của cán bộ chuyên
trách và CTV Dân số-KHHGĐ ở cở sở cùng với ý thức tự giác của đại bộ phận nhân
dân trong thực hiện chính sách Dân số-KHHGĐ mà công tác Dân số-KHHGĐ của xã nhà
đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận góp phần không nhỏ vào công cuộc phát
triển kinh tế-xã hội, xóa đói giảm nghèo của địa phương./.
Nguồn của BCĐ công tác Dân
số-KHHGĐ xã Hưng Long