[6] [dansohungnguyen] [slider-top-big] []
You are here: Home / , Dân số Hưng Long - nhiều nét khởi sắc mới

Dân số Hưng Long - nhiều nét khởi sắc mới

 I.Vị trí địa lý, địa giới.
Hưng Long là một xã vùng trũng, nằm ở phía Tây Nam huyện Hưng Nguyên. Trung tâm xã cách Huyện lỵ khoảng 15 km, nằm ngay cạnh đường Tỉnh lộ ven sông Lam-Tuyến giao thông huyết mạch của xã. Hưng Long có ranh giới hành chính chung với các xã: Phía Bắc giáp Nam Cát (Nam Đàn), phía Nam giáp xã Nam Trung (Nam Đàn) và sông Lam, Phía Đông giáp xã Hưng Xá, Phía Tây giáp xã Hưng Lĩnh.
 Địa hình xã Hưng Long cao dần từ Bắc xuống Nam. Địa bàn thấp trũng nên hàng năm thường bị ngập úng. Mạng lưới giao thông đường bộ kết hợp với giao thông thủy lợi phân cách đồng ruộng thành nhiều vùng.
Bản đồ vệ tinh xã Hưng Long
Hưng Long mang đặc điểm chung của khí hậu miền trung là nhiệt đới gió mùa. Đặc trưng khí hậu ở Hưng Long là biên độ nhiệt giữa các tháng trong năm lớn, chế độ mưa tập trung trùng với mùa bão, sự hoạt động của gió Phơn Tây Nam và gió mùa Đông Bắc biểu hiện rõ bản chất nóng ẩm của khí hậu nhiệt đới gió mùa: Tiềm năng nhiệt lượng phong phú có tác dụng đến sinh trưởng, phát triển của cây trồng và vật nuôi.
Nguồn nước phục vụ sản xuất nông nghiệp lấy từ các trạm bơm, về cơ bản đáp ứng cho sản xuất nông nghiệp. Với tổng diện tích tự nhiên là 463,43 ha. Trong đó đất nông nghiệp là 290,57 ha (62,7%), đất phi nông nghiệp là 168,5 ha (36,14%) và đất chưa sử dụng là 5,36 ha (1,16%).
 Xã Hưng Long có 1.335 hộ với 6.117 nhân khẩu: Toàn xã có 10 xóm được phân bổ trên các xóm gồm: Xóm 7A; 7B; xóm 8; 9A; 9B; 10;11A; 11B; 12; 16.  Trong đó có 40 hộ, 178 nhân khẩu theo đạo thiên chúa giáo; có 9 xóm sản xuất nông nghiệp, 1 xóm làm nghề vận tải trên sông nước.
Hưng Long là mảnh đất có nhiều di tích lịch sử văn hóa, trong đó phải kể đến Chùa Long Hoa thời Nguyễn. Trên đất Hưng Long có nhiều chùa chiền, nhưng do chiến tranh tàn phá ý thức của con người nên hiện nay chỉ còn lại chùa Long Hoa. Chùa Long Hoa ở xóm Xuân Phú gần bờ sông Lam. Chùa được xây dựng vào thời Nguyễn gồm hai tòa hình chữ nhị, nay chỉ còn lại tòa thượng, trước đây chùa có rất nhiều sư tăng.
Đền Xuân Hòa: Đền ở phía Đông làng Xuân Hòa trước kia có cây trồi to cao mọc trước đền. Nơi đây là địa điểm tập trung của đoàn biểu tình trước khi tiến về phủ Hưng Nguyên đấu tranh đòi quyền lợi ngày 12 tháng 09 năm 1930. Cây trôi là nơi 2 chiến sỹ cộng sản là Nguyễn Vỹ và Nguyễn Hỷ đã dũng cảm treo lên cờ Đảng kêu gọi nhân dân vùng lên đấu tranh trong cao trào xô viết Nghệ Tĩnh. Đến năm 1946 đền Xuân Hòa còn là địa điểm sản xuất vũ khí phục vụ cho chiến trường đánh Pháp. Đền Xuân Hòa đã bị pháp hủy, nay đã khôi phục lại và được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Tỉnh.
Bên cạnh những thuận lợi cơ bản, Hưng Long cũng có những khó khăn nhất định đó là: Với địa bàn là xã đông dân, có đường du lịch ven sông Lam, có Đê 42  đi qua nên khả năng di dân vào địa bàn là rất lớn. Là xã có một bộ phận nhân dân   theo đạo thiên chúa, công tác tuyên truyền, vận động thực hiện chủ trương chính sách của Đảng và Pháp Luật của Nhà nước đặc biệt là chính sách Dân số-KHHGĐ còn gặp nhiều khó khăn.
II. Tình hình chính trị- kinh tế -xã hội:
          Qua nhiều năm hình thành và phát triển đến nay Hưng Long đã giành được nhiều thành quả quan trọng trên tất cả các lĩnh vực Chính trị- Kinh tế, Văn hóa- Xã hội, Quốc phòng-An ninh.
Về Chính trị:
Công tác Đảng, công tác chính trị: Đảng bộ xã có 12 chi bộ với 235 đảng viên, là Đảng bộ trong sạch vững mạnh nhiều năm liền, Chính quyền và các ban ngành liên quan đến Mặt trận hàng năm được đánh giá là hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Đảng ủy, chính quyền đang tập trung chỉ đạo, huy động nguồn lực để xây dựng thành công Chương trình Mục tiêu Quốc gia nông thôn mới. Các Chỉ thị, Nghị quyết được triển khai đến tận cán bộ đảng viên và nhân dân.
Về Kinh tế:
 Tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm là 12,3% thu nhập bình quân đầu người năm 2012 là 17,3 triệu đồng. Tỷ lệ hộ nghèo năm 2013 là 11,9%. Nhân dân lao động Hưng Long cần cù trong lao động, sản xuất, dũng cảm kiên cường trong các cuộc kháng chiến.
Hưng Long đã triển khai kế hoạch đồng bộ như; Bố trí hợp lý cơ cấu cây trồng theo hướng coi trọng hiệu quả kinh tế, tập trung thâm canh trên những diện tích chủ động nước, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp, loại bỏ giống cũ, đưa các giống lúa lai vào sản xuất cho năng suất lúa bình quân đạt 120,5tạ/ha. Năm 2006 tăng trưởng kinh tế là 13%, thu nhập bình quân đầu người là 16,3triệu đồng/người/năm. Đến năm 2012 tăng trưởng kinh tế là 14%, thu nhập bình quân đầu người là 17,3 triệu đồng/người/năm. Tỷ lệ hộ nghèo là 11,9%, tỷ lệ gia đình đạt danh hiệu “Gia đình văn hóa” là 87,5%.
Đưa các giống con vật nuôi cho năng suất giá trị cao, ngoài Trâu, Bò, Lợn, Gà còn phát triển thêm bò thịt, bò sinh sản, gia cầm theo hướng quy mô lớn đem lại hiệu quả kinh tế cao. Năm 2012 tổng đàn gia súc gia cầm là: Đàn Bò là 1.500 con, đàn Trâu 150 con, đàn Lợn 1.500 con, đạt 100% kế hoạch.
Ngành nghề dịch vụ đều  phát triển mạnh. Các lao động mộc, nề, sơn, trong xã đã phát huy hiệu quả. Đặc biệt là ngành nghề mây tre đan dân dụng ở xóm 12 đã góp phần giải quyết việc làm tăng thu nhập cho hộ gia đình. Lực lượng lao động đi làm trong và ngoài tỉnh, lao động xuất khẩu tăng. Lao động trong tỉnh 272 lao động, lao động ngoài tỉnh 210 lao động, lao động xuất khẩu là 428  lao động  đa số ở các thị trường có thu nhập cao.
Về văn hóa xã hội -Thể  dục thể thao:
          Cùng với tăng trưởng kinh tế, giáo dục cũng có nhiều bước tiến đáng kể. Phát huy nhân tố con người và vì con người là 2 tiêu chí và 2 động lực được Đảng bộ coi trọng, nhằm đưa nhân dân Hưng Long thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu tiến tới trình độ văn minh. Mục tiêu giáo dục được coi là mục tiêu then chốt, tỷ lệ học sinh đậu vào các trường đại học, cao đẳng với điểm số cao, các em đậu vào cấp 3 đạt kết quả cao.
          Hoạt động văn nghệ, thể dục thể thao ngày càng có nhiều bước chuyển biến mới, các hoạt động văn nghệ trong xã cũng được chú trọng. Vì vậy đã tạo nên bầu không khí lành mạnh, phấn khởi, tươi vui làm phong phú thêm đời sống tinh thần và làm dịu đi những lo toan vất vả đời thường của bà con nhân dân sau những ngày làm việc mệt nhọc.
Về Quốc phòng-An Ninh:
Nhiệm vụ huấn luyện quân sự, giáo dục chính trị -Tư tưởng cho lực lượng vũ trang được thực hiện đầy đủ và nghiêm túc. Công tác quản lý quân dự bị động viên và gọi quân nhân lên đường nhập ngũ hàng năm đều hoàn thành chỉ tiêu trên giao.
Công tác An ninh trật tự được giữ vững, các vụ việc hình sự giảm, an ninh thôn xóm được đảm bảo, không có các vụ trọng án xảy ra. Tuy nhiên, Hưng Long vẫn chưa thể đẩy lùi tình trạng buôn bán tàng trữ và sử dụng ma túy. Năm 2013 công an xã Hưng Long đã bắt được 5 vụ buôn bán ma túy.
III. Quá trình hình thành và phát triển của công tác Dân số - KHHGĐ
Công tác Dân số - KHHGĐ luôn được xác định là một bộ phận quan trọng trong chiến lược phát triển đất nước, một trong những vấn đề kinh tế- xã hội hàng đầu của quốc gia, vì thế mà Đảng uỷ, UBND xã rất quan tâm tới công tác Dân số- KHHGĐ nên trong những năm qua đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo thực hiện công tác Dân số - KHHGĐ như:
Đảng uỷ đã quán triệt trong toàn Đảng bộ Nghị Quyết số 04- NQ/HNTW ngày 14/01/1993 của Hội nghị lần thứ tư ban chấp hành trung ương Đảng khoá VII và từ đó thành lập Ban Dân số - KHHGĐ xã và ban hành các Nghị Quyết chuyên đề về thực hiện công tác Dân số - KHHGĐ trong từng giai đoạn.
UBND xã đã ban hành các Quyết Định, kế hoạch và các công văn triển khai công tác Dân số - KHHGĐ, chăm sóc sức khỏe sinh sản, cùng nhiều văn bản chỉ đạo công tác phối hợp với các ban ngành đoàn thể. Vì vậy, mà trong 20 năm qua công tác Dân số - KHHGĐ trên địa bàn xã Hưng Long đã giành được nhiều kết quả quan trọng và đạt được chỉ tiêu giảm sinh và đạt mức sinh thay thế. Tuy nhiên, với địa bàn là xã có đặc thù sông nước tỷ lệ sinh và sinh con thứ 3 trở lên không có tính bền vững. Vấn đề “trọng nam khinh nữ” muốn có con trai để nối dõi tông đường, vấn đang còn tồn tại trong nhận thức của nhân dân, vì thế mà công tác tuyên truyền, vận động thực hiện tốt chính sách Dân số - KHHGĐ gặp rất nhiều khó khăn.
Năm 1993 Ban Dân số - KHHGĐ xã Hưng Long được thành lập theo Nghị Định số 42/CP, ngày 21/6/1993 của Chính phủ quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn tổ chức bộ máy và lề lối làm việc của Uỷ ban Quốc gia Dân số-KHHGĐ. Sau khi được thành lập, với sự nhiệt tình của đội ngũ cán bộ làm công tác Dân số - KHHGĐ được sự quan tâm, chỉ đạo của các cấp, sự phối hợp chặt chẽ của các ban ngành có liên quan nên công tác Dân số-KHHGĐ có được những chuyển biến rõ rệt. Thay đổi nhận thức của người dân trong việc thực hiện sinh đẻ có kế hoạch và chất lượng cuộc sống được nâng lên. Cụ thể là:
Năm 1993: Tổng nhân khẩu 5.258 người, số hộ 1.253, tổng sinh 35 cháu tỷ suất sinh 18,3%o; Con thứ 3 trở lên 5 cháu chiếm 12,5%, tỷ suất tăng dân số tự nhiên 5,8%o; Số phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ có chồng 1.334 người, sử dụng các BPTT hiện đại  là 678 ca, trong đó đình sản 0 ca.
Năm 1997: Tổng nhân khẩu 5.783, số hộ 1.189, tổng sinh 159, tỷ suất sinh 11,79 %o; Con thứ 3 trở lên 5 cháu chiếm 7,35%, tỷ suất tăng dân số tự nhiên 6,79%o; Số phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ 1.427 người, sử dụng BPTT hiện đại là 210 ca, trong đó đình sản là 4 ca.
Năm 2000: Tổng nhân khẩu 5.856, số hộ 1.297, tổng sinh 57 cháu, tỷ suất sinh 9,8 %o; Con thứ 3 trở lên 6 cháu chiếm 10,53%, tỷ suất tăng dân số tự nhiên 5,1%o; Số phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ có chồng là 846 người, sử dụng các BPTT hiện đại là 240 ca, trong đó đình sản là 2 ca.
Năm 2003 thực hiện Nghị Định số 94/CP, ngày 11/11/2002 của Chính phủ quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Uỷ ban Dân số, Gia đình & Trẻ em. Ban Dân số - KHHGĐ xã Hưng Long được đổi thành Ban Dân số, Gia đình & Trẻ em.
Sau 10 năm công tác Dân số - KHHGĐ đã có nhiều thay đổi Tổng tỷ suất sinh 18,3%o năm 1993 đến năm 2000 còn 9,8%o,  con thứ 3 trở lên 5 cháu chiếm 12,5% năm 1993, đến năm 2000 còn 10,53 %, tỷ suất tăng dân số tự nhiên 4,5%o;
Năm 2005: Tổng nhân khẩu là 5.918, số hộ 1.297, tổng sinh 72 cháu, tỷ suất sinh 11,4%o; Con thứ 3 trở lên 16 cháu chiếm 20,3 %, tỷ suất tăng dân số tự nhiên 5,1%o;
Năm 2006: Tổng nhân khẩu 5.869, số hộ 1.322, tổng sinh 58 cháu, tỷ suất sinh 9,9%o; Con thứ 3 trở lên 51 cháu chiếm 33,1%, tỷ suất tăng dân số tự nhiên 9,5%o;
Năm 2007: Tổng nhân khẩu 5.524, tổng sinh 55 cháu, tỷ suất sinh 9,9%o; Con thứ 3 trở lên 7 cháu chiếm 12,72%, tỷ suất tăng dân số tự nhiên 5,9%o;
Đến năm 2008 Ban Dân số, Gia đình & Trẻ em xã Hưng Long được đổi thành Ban Dân số - Kế hoạch hoá gia đình, theo Thông tư 05/2008/TT-BYT, ngày 14/5/2008 Về việc hướng dấn chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức bộ máy Dân số - KHHGĐ ở địa phương.
 Năm 2008: Tổng nhân khẩu 5.876, tổng hộ 1.322, tổng sinh 54 cháu, tỷ suất sinh 10,5%o; Con thứ 3 trở lên 6 cháu chiếm 14,5%, tỷ suất tăng dân số tự nhiên 6,5%o;
Năm 2009: Tổng nhân khẩu 5.589, tổng hộ 1.238 tổng sinh 56 cháu, tỷ suất sinh 8,5%o; con thứ 3 trở lên 11cháu chiếm 12,5%, tỷ suất tăng dân số tự nhiên 6,3%o;
Năm 2010: Tổng nhân khẩu 5.176, tổng hộ 1.332, tổng sinh 38 cháu, tỷ suất sinh 7,1%o; Con thứ 3 trở lên 4 cháu chiếm 10,53%, tỷ suất tăng dân số tự nhiên 6,7%o;
Năm 2011: Tổng nhân khẩu 5.191, tổ hộ 1.332 tổng sinh 65 cháu, tỷ suất sinh 12,3%o; Con thứ 3 trở lên 12 cháu chiếm 18,46%, tỷ suất tăng dân số tự nhiên 7,5%o;
 Năm 2012: Tổng khẩu 5.129, số hộ 1.323, tổng sinh 75 cháu, tỷ suất sinh 14,4%o; con thứ 3 trở lên 16 cháu chiếm 21,33%, tỷ suất tăng dân số tự nhiên 6,5%o;
9 tháng đầu năm 2013 toàn xã có: 1.323 hộ. và 5.129 nhân khẩu. Tổng sinh 40 cháu, giảm 6 cháu so cùng kỳ 2012; con thứ 3 trở lên 7 cháu giảm 2 cháu so cùng kỳ 2012.
Đến năm 2013 công tác Dân số - KHHGĐ đã dần ổn định công tác vận động ký cam kết thực hiện Chính sách Dân số - KHHGĐ theo Quyết Định 76/2012 của UBND tỉnh Nghệ An đạt 98,6%. Xử lý 98% các trường hợp vi phạm Chính sách Dân số-KHHGĐ.
Mô hình gia đình nhỏ có 1 đến 2 con được người dân thực hiện một cách tự nguyện, đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao, góp phần xoá đói, giảm nghèo tiến tới thực hiện tốt các tiêu chí xây dựng nông thôn mới.
IV. Quá trình hình thành tổ chức bộ máy của Ban chỉ đạo và mạng lưới Chuyên trách Dân số - KHHGĐ ở xã.
Năm 1993 Ban Dân số - KHHGĐ xã Hưng Long được thành lập theo Nghị Định số 42/CP, ngày 21/61993 của Chính phủ quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn tổ chức bộ máy và lề lối làm việc của Uỷ ban Quốc gia Dân số và kế hoạch hóa gia đình. Do ông Phan Văn Thanh Chủ tịch UBND xã làm Trưởng Ban, ông Nguyễn Văn Hùng làm cán bộ chuyên trách Dân số-KHHGĐ, các ông, bà trưởng các ban ngành, đoàn thể có liên quan làm thành viên và mạng lưới cộng tác viên của 10 xóm.
Đến năm 2002 thực hiện Nghị Định số 94/CP, ngày 11/11/2002 của Chính phủ quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Uỷ ban Dân số, Gia đình & Trẻ em. Ban Dân số-KHHGĐ xã Hưng Long được đổi thành Ban Dân số, Gia đình & Trẻ em. Do ông Võ Hồng Sơn- Phó Chủ tịch UBND xã làm Trưởng Ban, ông Nguyễn Văn Hùng làm cán bộ chuyên trách Dân số-KHHGĐ.
Đến năm 2008-2009 Ban Dân số- KHHGĐ xã Hưng Long do Ông Võ Hồng Sơn -Phó Chủ Tịch UBND xã làm Trưởng ban, Bà Phan Thị Thu làm cán bộ chuyên trách Dân số-gia đình & Trẻ em.
Và đến năm 2010- 2011 Ban Dân số, Gia đình & trẻ em xã Hưng Long được đổi thành Ban Dân số - Kế hoạch hoá gia đình, theo Thông tư 05/2008/TT-BYT, ngày 14/5/2008 về việc hướng dấn chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức bộ máy Dân số-KHHGĐ ở địa phương. Do ông Hoàng Nghĩa Nhân- Phó Chủ tịch UBND xã làm Trưởng Ban, bà Phan Thị Hiền làm cán bộ chuyên trách Dân số-KHHGĐ, các ông, bà trưởng các ban ngành, đoàn thể có liên quan làm thành viên và mạng lưới cộng tác viên của 10 xóm.
Ban CĐTH công tác Dân số-KHHGĐ xã Hưng Long
Ban chỉ đạo thực hiện công tác Dân số - KHHGĐ xã Hưng Long do các thành viên thuyên chuyển công tác nên cũng có sự thay đổi. Từ tháng11 năm 2011 ­đến ­nay do bà Phan Thị Bé làm cán bộ chuyên trách  và ông Hoàng Nghĩa Nhân Phó chủ tịch UBND làm trưởng ban. Ban chỉ đạo thực hiện công tác Dân số- KHHGĐ xã Hưng Long gồm các ông bà sau:
TT
Họ và tên
Chức vụ
Nhiệm vụ
1
Hoàng Nghĩa Nhân
Phó Chủ tịch UBND xã
Trưởng ban
2
Hồ Văn Hưng
Trạm trưởng trạm y tế
Phó  ban
3
Phan Thị Bé
CBChuyên trách DS-KHHGĐ
Phó ban trực
4
Ngô Hồng Lĩnh
Cán bộ Tư pháp - Hộ tịch
Ban viên
5
Nguyễn Dương Liệu
Chủ tịch Hội CCB
Ban viên
6
Nguyễn văn Sơn
Chủ tịch MTTQ
Ban viên
7
Hoàng Trọng Cát
BTĐoàn TN,kiêm văn hoá
Ban viên
8
Nguyễn Thị Thanh
CB Tài chính
Ban viên
9
Nguyễn Thị Tuyết
Văn phòng -Thống kê
Ban viên
10
Trương Đình Thành
Trưởng công an
Ban viên
   11
Nguyễn Văn Thắng
Chủ tịch Hội ND
Ban viên
 12
Nguyễn Thị Thu
Chủ tịch Hội LH PN
Ban viên
 13
Thái Thị Thảo
CB Kế toán
Ban viên

Cán bộ chuyên trách Dân số - Kế hoạch hoá gia đình qua các thời kỳ:
Năm 1993 – 2008:  Ông Nguyễn văn Hùng
Năm 2008– 2010:  Bà Phan Thị Thu
Năm 2010- 2011:   Ông Phan Thị Hiền
Năm 2011-  Nay:    Bà Phan Thị Bé
Xã Hưng Long có 10 cộng tác viên/10 xóm. Các cộng tác viên năng nổ nhiệt tình và đầy trách nhiệm, được tập huấn nghiệp vụ và tập huấn bảng kiểm viên uống tránh thai và tham gia đầy đủ các lớp tập huấn do cấp trên tổ chức. Các cộng tác viên theo thời gian cũng có sự thay đổi, người làm Cộng tác viên Dân số-KHHGĐ lâu năm nhất là 8 năm, người làm ít năm nhất là 1 năm.
 V. Thành tích khen thưởng
1, Thành tích khen thưởng của xã:
Năm 2006: Chủ tịch UBND huyện Hưng Nguyên tặng giấy khen cho nhân dân và cán bộ xã Hưng Long có mức sinh giảm 5% .
Năm 2010: Chủ tịch UBND huyện Hưng Nguyên tặng giấy khen cho nhân dân và cán bộ xã Hưng Long có mức sinh giảm 5%
2, Thành tích khen thưởng của xóm :
Năm 2006: Xóm 10, 9A- Chủ tịch UBND Huyện Hưng Nguyên tặng giấy khen cho nhân dân và cán bộ xóm đạt 2 năm liên tục xóm không có người sinh con thứ 3 trở lên.
Năm 2011: Xóm 9A, 7B, 10, 11A - Chủ tịch UBND Huyện Hưng Nguyên tặng giấy khen cho nhân dân và cán bộ xóm đạt 2 năm liên tục xóm không có người sinh con thứ 3 trở lên.
Năm 2012: Xóm 11B, 11A - Chủ tịch UBND huyện Hưng Nguyên tặng giấy khen cho nhân dân và cán bộ xóm đạt 2 năm liên tục xóm không có người sinh con thứ 3 trở lên.
Năm 2010-2012: Xóm 10 - Chủ tịch UBND huyện Hưng Nguyên tặng giấy khen cho nhân dân và cán bộ xóm đạt 3 năm liên tục xóm không có người sinh con thứ 3 trở lên.
Có thể nói rằng, bằng sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền, sự phối hợp chặt chẽ của các ban ngành đoàn thể, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự nỗ lực cố gắng của đội ngũ của cán bộ chuyên trách và CTV Dân số-KHHGĐ ở cở sở cùng với ý thức tự giác của đại bộ phận nhân dân trong thực hiện chính sách Dân số-KHHGĐ mà công tác Dân số-KHHGĐ của xã nhà đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận góp phần không nhỏ vào công cuộc phát triển kinh tế-xã hội, xóa đói giảm nghèo của địa phương./.

Nguồn của BCĐ công tác Dân số-KHHGĐ xã Hưng Long