I.VỊ TRÍ ĐỊA LÝ VÀ ĐỊA GIỚI
Hưng
Tiến là một xã thuần nông độc canh về nông nghiệp, xã nằm vùng giữa của huyện Hưng
Nguyên, cách thành phố Vinh khoảng 7km về
phía Tây Nam .
Phía Nam
giáp xã Hưng Phú và Hưng Lam. Phía Tây giáp xã Hưng Xuân. Phía Bắc giáp xã Hưng
Thông và Hưng Tân. Phía Đông giáp xã Hưng Thắng. Địa bàn xã có đường tỉnh lộ 8B
và đường sắt Bắc Nam
chạy qua đó là điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế của nhân dân.
Dân
số xã Hưng Tiến tính đến thời điểm năm 2013 có 707 hộ với 2.937 nhân khẩu được
phân bổ trên 7 đơn vị xóm. Mật độ dân số bình quân 790 người/m2. Tổng diện tích
tự nhiên xã Hưng Tiến có 380,7 ha.
Địa
hình xã Hưng Tiến khá cao nhưng không bằng phẳng bởi các lạch ngòi do mái núi
Thành đổ xuống. Đồng ruộng bị chia cắt do các lạch bàu như: Trọt rú, cống âm,
cầu lồi, bàu cải, cựa biền….. Các bàu lạch này xưa kia chỉ cấy được một vụ lúa
hoặc bỏ hoang. Do đặc điểm như vậy, nên sản xuất nông nghiệp của Hưng Tiến gặp
rất nhiều khó khăn. Trải qua những năm lịch sử dưới chế độ thực dân phong kiến
người dân Hưng Tiến hoàn toàn phụ thuộc vào thiên nhiên, bị đặc điểm địa hình
chi phối nên sản xuất bấp bênh, quanh năm thiếu ăn. Ngày nay dưới sự lãnh đạo
của Đảng nên đường giao thông của xã tương đối thuận lợi,
trục đường A đã được rãi nhựa liên xã, trục đường B,C thôn xóm đều được bê tông hóa. Hệ thống tưới tiêu, phong trào thủy lợi hóa, bờ vùng, bờ thửa ngày càng được hoàn thiện, việc chống úng, chống hạn không còn là nổi lo của nhân dân. Các vùng cao được tưới nước tạo nên những cánh đồng thâm canh tươi tốt. Những vùng lạch bàu nay trở thành nơi nuôi trồng thủy sản…. tạo nên những trang trại chăn nuôi “ cá, lúa, lợn” có thu nhập khá ổn định.
trục đường A đã được rãi nhựa liên xã, trục đường B,C thôn xóm đều được bê tông hóa. Hệ thống tưới tiêu, phong trào thủy lợi hóa, bờ vùng, bờ thửa ngày càng được hoàn thiện, việc chống úng, chống hạn không còn là nổi lo của nhân dân. Các vùng cao được tưới nước tạo nên những cánh đồng thâm canh tươi tốt. Những vùng lạch bàu nay trở thành nơi nuôi trồng thủy sản…. tạo nên những trang trại chăn nuôi “ cá, lúa, lợn” có thu nhập khá ổn định.
II. TÌNH HÌNH CHÍNH TRỊ, KINH
TẾ, XÃ HỘI:
Với
những đặc điểm, thuận lợi, khó khăn như thế. Để đưa đời sống của nhân dân Hưng
Tiến ngày càng một phát triển hơn nữa. Đảng ủy, Chính quyền Hưng Tiến tập trung
lãnh đạo, chỉ đạo huy động nguồn lực, ứng dụng tiến bộ khoa học kỷ thuật, chỉ
đạo nhân dân tăng gia sản xuất để tiếp tục phát triển kinh tế. Trải qua nhiều
biến đổi thăng trầm của lịch sử cho đến thời điểm hiện nay kết quả thực hiện
mục tiêu tăng trưởng kinh tế của xã nhà đã dành được nhiều thắng lợi.
Trên
lĩnh vực kinh tế - xã hội:
Bình
quân thu nhập đầu người đạt 15,2 triệu
đồng/ người/ năm.
Tổng
lương thực bình quân 2012 - 2013 đạt 290 tấn đạt 98% kế hoạch. Chăn nuôi gia
súc gia cầm: Tổng đàn trâu bò có khoảng
450 con; gà, vịt có khoảng 21.000 con.
Diện
tích nuôi trồng thủy sản 48 ha; sản lượng cá năm 2012 - 2013 có khoảng 388 tấn.
Tiểu
thủ công nghiệp xây dựng: Giá trị sản xuất kinh doanh ngành nghề, thương mại
dịch vụ, xây dựng trên địa bàn xã đạt 28,2 tỷ đồng/ năm
Về
xây dựng kết cấu hạ tầng đã tranh thủ sự hộ trợ của Nhà nước, cấp trên bằng các
chương trình dự án như giao thông, thủy lợi chương trình nước sinh hoạt, xây
dựng thiết chế văn hóa, cho đến thời điểm hiện nay trên địa bàn xã hệ thống
Điện, Đường, Trường, Trạm đã được xây dựng khang trang.
Về
văn hóa xã hội: Các hoạt động văn hóa,
thể dục, thể thao đã thực sự mạng lại hiệu quả thiết thực mang tính rộng rãi
như: bóng đá, bóng chuyền, cầu lông, đi bộ, tập thể dục dưỡng sinh. Thực hiện
phong trào “ Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”. Trong những năm qua
Hưng Tiến đã dành được những thành tựu đáng kể, đến nay đã có 6/7 làng được
công nhận Làng văn hóa. 3/3 trường học được công nhận đơn vị văn hóa, Trạm y tế
được công nhận trạm chuẩn Quốc gia về y tế đợt I. Năm 2013 đang tiến hành thẩm
định để công nhận đạt mức giai đoạn II. Hàng năm tỷ lệ hộ gia đình đạt gia đình
văn hóa 85%. Tỷ lệ học sinh thi đậu vào
các trường đại học, cao đẳng đạt 75% chỉ tiêu hàng năm. Công tác chính sách xã
hội, hàng năm đều làm tốt công tác đền ơn đáp nghĩa cho những người có
công với nước; 100% các đối tượng hộ
nghèo, hộ cận nghèo đều được quan tâm. Xã Hưng Tiến đã được UBND tỉnh Nghệ An
công nhận xã văn hóa năm 2004 là xã văn hóa đầu tiên trên địa bàn huyện Hưng
Nguyên. Đền Đức Ông ở xóm 1 được công nhận là Di tích văn hóa cấp tỉnh từ năm
2010.
Về
quốc phòng - an ninh: Hàng năm giữ vững an ninh, chính trị, trật tự, an toàn xã
hội, không ngừng nâng cao đời sống cho nhân dân. Hàng năm xã giữ vững xã sạch
về ma túy và không có người vi phạm pháp luật và tệ nạn xã hội.
Công
tác xây dựng Đảng: Đảng ủy đã chú trọng các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng đảng viên và tổ chức cơ sở Đảng,
vị thế tiên phong của đảng viên được nâng lên thể hiện ở việc đổi mới tư duy và
hành động. Hàng năm Đảng ủy đã lãnh đạo,
chỉ đạo công tác hoạt động của các tổ chức đoàn thể về các phong trào cả về
chiều sâu, bề nổi. Do vậy, hàng năm các tổ chức, đoàn thể đều được cấp trên
đánh giá hoàn thành tốt nhiệm vụ. Đảng ủy xã Hưng Tiến nhiều năm liền đều đạt
Đảng bộ trong sạch vững mạnh.
Để
đạt được những kết quả như vậy thì mục tiêu thực hiện tốt công tác Dân số KHHGĐ
là một nội dung hết sức quan trọng mà Đảng ủy, Chính quyền xã Hưng Tiến đã và
đang hướng tới để chỉ đạo.
III. QÚA TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ
PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG TÁC DÂN SỐ KHHGĐ:
Công
tác dân số được hình thành và phát triển từ năn 1991, giai đoạn 1991 - 1994
được gọi là công tác Dân số-KHHGĐ. Trong giai đoạn này nội dung thực hiện chủ
yếu là tuyên truyền, vận động, tư vấn cho nhân dân, các cặp vợ chồng trong độ
tuổi sinh đẻ về chăm sóc sức khỏe sinh sản - Kế hoạch hóa gia đình. Thực hiện
theo đường lối của Đảng, Pháp luật của nhà nước về chính sách Dân số - KHHGĐ.
Đảng ủy, Chính quyền đã chỉ đạo và phát động phong trào hưởng ứng thực hiện tốt
công tác Dân số- KHHGĐ. Qua công tác phát động đã được toàn thể nhân dân, đặc
biệt là các đối tượng trong độ tuổi sinh đẻ hưởng ứng sôi nổi. Đã tổ chức tuyên
truyền vận động được 85% số cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ thực hiện các
biện pháp tránh thai. Đặc biệt năm 2000 đã vận động được 21 đối tượng cả nam và
nữ đăng ký thực hiện biện pháp tránh thai triệt sản.
Với
những chặng đường đầu tiên phát triển của công tác Dân số - KHHGĐ, nhân dân và
cán bộ Hưng Tiến đã tạo được sự tham gia tích cực của toàn thể xã hội thực hiện
nhiệm vụ này. Tỷ lệ phát triển Dân số ở mức 1% trong gia đoạn 1993 – 2004. Tỷ
lệ sinh con thứ 3 trở lên 13%.
Đến
năm 2005, mặc dù trong điều kiện hoạt động lĩnh vực Dân số - KHHGĐ đang có
hướng tích cực. Tuy nhiên Nhà nước ta nhận thấy chất lượng giáo dục về gia đình,
xây dựng gia đình hạnh phúc, công tác chăm sóc và giáo dục trẻ em đang có nhiều
vấn đề nổi cộm. Từ năm 2005 - tháng 8/ 2008
Nhà nước ta đã thành lập và cho hình thành mảng Dân số - KHHGĐ trở thành
Dân số – Gia đình và Trẻ em. Từ chỗ hoạt động một lĩnh vực Dân số- KHHGĐ, nay
trở thành hoạt động ba lĩnh vực Dân số - Gia đình và Trẻ em. Bởi vậy, Đảng ủy,
Chính quyền địa phương đã tăng cường công tác chỉ đạo, lãnh đạo để tổ chức thực
hiện nhiệm vụ. Không phụ công sức của những bậc tiền bối, đồng thời sự am hiểu
thấm nhuần của toàn thể nhân dân xã nhà, nên trong giai đoạn 2005 – 2008 tỷ lệ
phát triển Dân số ở mức 0,9%. Tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên 12%. Tỷ lệ các cặp
vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ được cung cấp các biện pháp tránh thai đạt 90%.
Tỷ lệ gia đình văn hóa đạt 80%. Mô hình xây dựng gia đình ít con có 1 hoặc 2
con, no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và phát triển bền vững ngày càng cao.
Trẻ em được quan tâm, chăm sóc và giáo dục. Tỷ lệ trẻ em được đến trường đạt
100%. Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng ở mức 12%.
Chặng
đường giữa năm 2008, do một số người dân cố tình hiểu sai về Điều 10 của Pháp
lệnh Dân số 2003. Từ năm 2007 tỷ lệ sinh con thứ 3 tăng đột biến. Chất lượng
dân số còn thấp chưa đáp ứng theo từng giai đoạn. Tỷ lệ mất cân bằng giới tính
khi sinh có chiều hướng báo động. Công tác Dân số - KHHGĐ được chuyển sang lĩnh
vực y tế để hoạt động nhiệm vụ.
Tiếp
tục thực hiện chủ trương chính sách của Đảng, Pháp luật của Nhà nước về công
tác Dân số - KHHGĐ. Một lần nữa Đảng ủy, Chính quyền địa phương xã Hưng Tiến lại
quyết tâm chỉ đạo để giải quyết hậu quả để lại của năm 2007. Hưng Tiến tỷ lệ
sinh con thứ 3 trở lên chiếm tới 33%, một con số đáng báo động.
Trong
điều kiện địa phương đang phải tập trung chỉ đạo sản xuất vụ xuân đối mặt với
thời tiết khắc nghiệt, rét đậm, rét hại kéo dài. Sản xuất vụ hè thu có lúc thì
nắng hè đốt bỏng. Mặc dầu vậy, với ý chí chỉ đạo thực hiện tốt công tác Dân số
- KHHGĐ là khâu đột phá để thực hiện thành công các nhiệm vụ kinh tế – xã hội.
An ninh - quốc phòng của địa phương. Do vậy, Ban chỉ đạo đã tham mưu với Đảng
ủy, Chính quyền tập trung chỉ đạo các ban, ngành, đoàn thể làm tốt công tác
phối hợp để tổ chức tuyên truyền, vận động nhân dân cùng thực hiện. Sự đồng
thuận hưởng ứng của toàn thể nhân dân, kết hợp với tinh thần trách nhiệm, sự
kiên trì vận động của những người làm công tác Dân số - KHHGĐ trên địa bàn xã
qua các thời kỳ, chính đội ngũ này đã “đi từng ngõ, gõ từng nhà, rà từng đối
tượng” để giúp bà con hiểu rõ cách chăm
sóc sức khỏe, đặc biệt là chăm sóc sức khỏe sinh sản cho bản thân, hiểu rõ về
đẻ ít, đẻ thưa để có điều kiện chăm sóc sức khỏe cho bà mẹ, cho trẻ, nhằm mang
lại lợi ích cho bản thân, gia đình và xã
hội.
Trong
suốt những năm qua xã Hưng Tiến luôn duy trì và thực hiện tốt các mục tiêu Dân
số - KHHGĐ. Tỷ lệ phát triển dân số ở mức ổn định 0,6%. Tỷ lệ sinh con thứ 3
trở lên mức dưới 10%. Tỷ lệ các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ thực hiện
các biện pháp tránh thai hiện đại chiếm 95%. Tổng số con trung bình cho một phụ
nữ trong độ tuổi sinh đẻ từ 1,8 đến 2,0 con, đạt mức sinh thay thế. Tỷ lệ mất
cân bằng giới tính khi sinh bình quân 105 BT/ 100BG. Tỷ lệ các bà mẹ mang thai
và trẻ em sinh ra đều được sàng lọc để phát hiện, can thiệp một số dị tât bẩm
sinh không đáng có.
Năm
2013 Tỷ suất sinh giảm 0,2%o so với cùng kỳ năm 2012. Tỷ lệ sinh con thứ 3 trở
lên giảm 7,5% so với cùng kỳ năm 2012 ( Năm 2012 chiếm 16,3%)
Thực hiện tốt công tác Dân số - KHHGĐ
là mấu chốt quan trọng để phát triển kinh tế, Chính trị, văn hóa- xã hội ở địa
phương nói riêng và trên toàn xã hội nói chung.
IV. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ
TỔ CHỨC BỘ MÁY CỦA BAN CHỈ ĐẠO VÀ MẠNG LƯỚI CHUYÊN TRÁCH DÂN SỐ KHHGĐ:
Tổ
chức bộ máy làm công tác Dân số - KHHGĐ là một hệ thống xuyên suốt từ Trung ương
đến địa phương. Từ năm 2007 đến nay hệ thống bộ máy được chia thành 4 cấp thứ
tự từ Tổng cục Dân số - KHHGĐ; Chi cục Dân số - KHHGĐ, Trung tâm Dân số - KHHGĐ; Ban chỉ đạo thực hiện công tác Dân số -
KHHGĐ các xã, phường, Thị trấn. Mạng lưới cộng tác viên Dân số - KHHGĐ ở các
đơn vị xóm.
Căn
cứ vào hệ thống tổ chức bộ máy làm công tác Dân số-KHHGĐ do Nhà nước ta quy
định tại Nghị định số 42- CP, ngày 21/06/1993 của Chính phủ về chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn tổ chức bộ máy về lề lối làm việc của Ủy ban Quốc gia Dân số - Kế
hoạch hóa gia đình. Hình thành tổ chức bộ máy của ban chỉ đạo thực hiện công
tác Dân số - KHHGĐ cấp xã. Xây dựng mạng lưới chuyên trách và đội ngũ cộng tác
viên Dân số - KHHGĐ có đủ năng lực, trình độ, tâm huyết với nghề để thực hiện
nhiệm vụ đề ra là vấn đề cấp bách mà địa phương quan tâm. Hàng năm đã tổ chức
kiện toàn kịp thời ban chỉ đạo thực hiện công tác Dân số - KHHGĐ theo từng giai
đoạn công tác.
Năm
1991 Đại hội Đảng bộ xã Hưng Tiến lần thứ 23 đã họp và Ban chấp hành Đảng bộ
gồm có 9 người. Trong đó đồng chí Nguyễn Viết Lượng Chủ tịch UBND xã kiêm Trưởng
ban Dân số - KHHGĐ, Đồng chí Hoàng Thị Hòa, Cán bộ chuyên trách Dân số - KHHGĐ
xã.
Từ
năm 1995 do địa phương có sự thay đổi về nhân sự nên đã bầu bổ sung đồng chí
Hoàng Tân Chiến Chủ tịch UBND xã kiêm Trưởng ban Dân số - KHHGĐ xã cho đến năm
2004. Chuyên trách Dân số - KHHGĐ, Đồng chí Nguyễn Văn Thanh đương nhiệm từ năm
1995 – 1997. Từ năm 1998 – 2001 chuyên trách là đồng chí Lê Thị Thành. Từ năm
2002 – 2004, Đồng chí Nguyễn Đình Lĩnh.
Đến
năm 2005 – 2011. Chủ tịch UBND xã là đồng chí Lê Văn Cận kiêm Trưởng ban Dân số
- Gia đình và Trẻ em, Từ năm 2005 – 2006, Chuyên trách Dân số - Gia đình và Trẻ
em là đồng chí Nguyễn Đình Lĩnh. Từ năm 2006 Chuyên trách Dân số - Gia đình và
Trẻ em là đồng chí Phan Thị Lịch. (Giai đoạn này là Dân số - Gia đình và Trẻ
em).
Căn
cứ vào Nghị Quyết số 53/NQ – HĐND, ngày 13/7/2012 của HĐND tỉnh Nghệ An; Quyết
định số 77/QĐ – UBND, ngày 19/10/2013 của UBND tỉnh Nghệ An về việc bố trí cán
bộ chuyên trách Dân số - KHHGĐ xã, phường, Thị trấn thành viên chức y tế. Ngày
03/9/2013 cán bộ chuyên trách Dân số - KHHGĐ đã được tuyển dụng thành viên chức
Dân số - KHHGĐ.
Ban CĐTH công tác dân số-KHHGĐ xã Hưng Tiến |
Năm 2012 – 2013 Ban chỉ đạo thực hiện công tác
Dân số - Kế hoạch hóa gia đình xã được kiện toàn gồm những đồng chí sau đây:
TT
|
Họ và
tên
|
Chức
vụ
|
Nhiệm
vụ
|
1
|
Trần Văn Hạnh
|
Chủ tịch UBND
|
Trưởng ban
|
2
|
Nguyễn Đình Hoan
|
Trưởng trạm y tê
|
Phó ban
|
3
|
Phan Thị Lịch
|
Chuyên trách
|
Phó ban
|
4
|
Lê Thị Thành
|
Chủ tịch HLHPN xã
|
Ban viên
|
5
|
Hồ Văn Sâm
|
Chủ tich HND xã
|
Ban viên
|
6
|
Nguyễn Văn Thanh
|
Công chức văn phòng
|
Ban viên
|
7
|
Lê Văn Sơn
|
Công chức tư pháp
|
Ban viên
|
8
|
Nguyễn Đình Lĩnh
|
Công chức Văn hóa
|
Ban viên
|
9
|
Nguyễn Viết Hạnh
|
Chủ tịch UBNTTQ xã
|
Ban viên
|
10
|
Trần Văn Thu
|
Ban tài chính xã
|
Ban viên
|
11
|
Trần Đức Danh
|
Chủ tịch HCCB xã
|
Ban viên
|
12
|
Nguyễn Văn Hiến
|
Bí thư ĐTN xã
|
Ban viên
|
13
|
Nguyễn Mạnh Dung
|
Trưởng công an xã
|
Ban viên
|
V. THÀNH TÍCH KHEN THƯỞNG:
*Về tập thể:
Năm
1997: Chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An khen thưởng cho nhân dân và cán xã Hưng Tiến
có thành tích giảm tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên thấp thứ 2 trong toàn huyện.
Năm
2006: Chủ tịch UBND huyện Hưng Nguyên tặng giấy khen cho nhân dân và cán bộ xóm
7 năm năm liên tục không có người sinh
con thứ 3 trở lên.
Năm
2007: Chủ tịch UBND huyện Hưng Nguyên tặng giấy khen cho nhân và cán bộ xóm 6
năm năm liên tục không có người sinh con
thứ 3 trở lên. Đơn vị xóm 3 hai năm liên tục không có người sinh con thứ 3 trở
lên.
Năm
2008: Chủ tịch UBND huyện Hưng Nguyên tặng giấy khen cho nhân dân và cán bộ xã
Hưng Tiến có thành tích giảm tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên trong năm 2008.
Năm
2009: Chủ tịch UBND huyện tặng giấy khen cho xóm 3 và xóm 5 hai năm liên tục
không có người sinh con thứ 3 trở lên.
Năm
2011: Chủ tịch UBND huyện Hưng Nguyên khen thưởng nhân dân và cán bộ xóm 2 hai
năm liên tục không có người sinh con thứ 3 trở lên.
Năm
2013: Chủ tich UBND huyện Hưng Nguyên tặng giấy khen cho nhân dân và cán bộ
Hưng Tiến có thành tích xuất sắc trong 10 năm thực hiện Pháp lệnh Dân số 2003.
Dân
số ổn định, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương,
đời sống của nhân dân từng bước được nâng lên. Cuộc sống của người dân nơi đây
đang từng ngày thay đổi. Cho đến thời điểm hiện nay các công trình điện, đường,
trường, trạm đã được xây dựng khang trang. Cán bộ và nhân dân xã Hưng Tiến đang
trên đà phấn đấu xây dựng thành công chương trình nông thôn mới mà Đảng ta đang
hướng tới, xứng đáng là xã văn hóa đầu tiên trên địa bàn huyện Hưng Nguyên./.
Nguồn của ban chỉ đạo thực hiện công tác Dân số KHHGĐ xã