I. Vị trí địa lý, địa giới
Hưng Tây là xã nằm ở
phụ cận Thành phố Vinh, cách Trung tâm thành phố Vinh khoảng gần 5 km; Hưng Tây
có vị trí tiếp giáp với các xã như : Phía Đông giáp xã Hưng Đông (Thành phố
Vinh ), Phía Bắc giáp xã Hưng Yên Nam và Hưng Yên Bắc, Phía Nam giáp Thị trấn
Hưng Nguyên và xã Hưng Chính (Thành phố Vinh ), phía Tây giáp xã Nam Giang (
Nam Đàn ).
Bản đồ Vệ tinh xã Hưng Tây, Hưng Nguyên |
Địa hình xã Hưng Tây có 3 con đường lớn chạy qua; Đường Quán
Bánh- eo gió dài gần 7Km đi từ ngã ba Quán Bánh Thành phố Vinh, qua khu công
nghiệp Bắc Vinh, qua Hưng Tây lên Huyện Nam Đàn. Đường Nguyễn Văn Trỗi từ
quốc lộ 46 đến Hưng Tây, Hưng Yên Nam , Hưng Yên Bắc và Hưng Trung.
Phía Đông xã Hưng Tây có kênh nhà Lê phục vụ cho tàu thuyền qua lại, xuất phát
từ bến Thủy đến Hưng Tây qua Hưng Trung - Cầu Cấm ra tỉnh Thanh Hóa. Phía Tây
của xã có dãy núi Đại Huệ hùng vĩ dài trên 10 Km, có điểm cao 174 - 281m nhằm
phục vụ cho các đài quan sát, trận địa pháo cao xạ, hệ thống ra đa hoạt động.
Tại khu vực điểm cao 281m có 4 cửa hầm xuyên núi phục vụ cho công tác Quốc
phòng – An ninh.
Xã Hưng Tây có 9.987 khẩu và được phân bổ trên 26 xóm gồm:
xóm Phúc Điền 1, Xóm Phúc Điền 2, Thượng Khê 3, Thượng Khê 4, Lam Đồng, Đại
Đồng, Đại Huệ 1, Đại Huệ 7, Xóm Đình, Xóm Kỳ, Xóm Vạc, Nam Phúc Long, Bắc Phúc
Long, Nam Phúc Hòa, Bắc Phúc Hòa, Khoa Đà 3, Khoa Đà 2, Khoa Đà 1, Nam Kẻ Gai,
Trung Kẻ Gai, Bắc Kẻ Gai 1, Bắc Kẻ Gai 2, Bắc Kẻ Gai 3, Hưng Thịnh 1, Hưng
Thịnh 2, Hưng Thịnh 3 với tổng diện tích tự
nhiên gần 2000 ha.
Người dân Hưng Tây vốn có lối sống cần cù, giản dị nhưng
lịch thiệp không chỉ trong lao động sản xuất mà còn thể hiện ở cách ăn, ở, đi
lại.
Về tôn giáo tín ngưỡng: Người dân Hưng
Tây chủ yếu theo Đạo Thiên chúa giáo chiếm tới 52% dân số , có 15/26 xóm có
đồng bào giáo dân (có 5 giáo họ của giáo xứ Kẻ Gai), trong đó có 10 xóm giáo
toàn tòng.
Về sinh hoạt văn hóa dân gian: Hưng
Tây là một trong những xã có truyền thống văn hóa nghệ thuật từ lâu đời. Trong
đó, các chất liệu dân ca các miền như hò ví dặm, hát bội và tổ chức các trò
chơi… được khai thác và đưa vào một cách sinh động, phong phú trong mọi hoạt
động.
Bên cạnh những thuận lợi cơ bản, Hưng Tây cũng có những khó
khăn nhất định đó là: Với địa bàn là xã đông dân, có đường tránh Vinh và đường
quốc lộ 46 đi qua nên khả năng di dân vào địa bàn là rất lớn. Là xã có đông
đồng bào theo đạo Công giáo, do đó công tác tuyên truyền vận động thực hiện chủ
trương chính sách của Đảng và Pháp luật của Nhà nước có nhiều khó khăn.
II. Tình hình chính trị -
kinh tế - xã hội
Qua 80 năm hình thành và phát triển, đến
nay Hưng Tây đã giành được nhiều thành quả quan trọng trên tất cả các lĩnh vực
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh - quốc phòng.
Công sở Xã Hưng Tây khang trang và làm việc nghiêm túc |
Hưng Tây đã triển khai kế hoạch đồng
bộ như; bố trí hợp lý cơ cấu cây trồng theo hướng coi trọng hiệu quả kinh tế,
tập trung thâm canh trên những diện tích chủ động nước, ứng dụng các tiến bộ
khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp, loại bỏ giống cũ, đưa các giống lúa
lai vào sản xuất cho năng suất lúa bình quân đạt 185 tấn/ha. Năm 2006 tăng
trưởng kinh tế là 15%, thu nhập bình quân đầu người là 8 triệu đồng/người/năm.
Đến năm 2012 tăng trưởng kinh tế là 9,2%, thu nhập bình quân đầu người là 23,1
triệu đồng/người/năm. Tỷ lệ hộ nghèo là 17%, tỷ lệ gia đình đạt danh hiệu “Gia đình văn hóa” là 70,4%.
Về chăn nuôi: Đưa các giống con nuôi
cho năng suất giá trị cao, ngoài trâu, bò, lợn cần phát triển thêm bò thịt, bò
sinh sản, gia cầm theo hướng quy mô lớn đem lại hiệu quả kinh tế cao.
Cùng với tăng trưởng kinh tế, giáo dục
cũng có nhiều bước tiến đáng kể. Phát huy nhân tố con người và vì con người là
2 tiêu chí và 2 động lực được Đảng bộ coi trọng nhằm đưa nhân dân Hưng Tây
thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu tiến tới trình độ văn minh. Mục tiêu giáo dục được
coi là mục tiêu then chốt, tỷ lệ học sinh đậu vào các trường đại học, cao đẳng
với điểm số cao, các em đậu vào cấp 3 đạt kết quả cao.
Hoạt động văn nghệ, thể dục thể thao
ngày càng có nhiều bước chuyển biến mới, các hoạt động văn nghệ trong xã cũng
được chú trọng, văn nghệ quần chúng được duy trì đều đặn, mỗi xóm thành lập đội
văn nghệ cứ đến các dịp lễ tết các ngày kỷ niệm đều tổ chức các đợt sinh hoạt văn
nghệ quần chúng. Vì vậy đã tạo nên bầu không khí lành mạnh, phấn khởi, tươi vui
làm phong phú thêm đời sống tinh thần và làm dịu đi những lo toan vất vả đời
thường của bà con nhân dân sau những ngày làm việc mệt nhọc.
III. Quá trình hình thành và
phát triển của công tác Dân số-KHHGĐ
Công tác Dân số-KHHGĐ luôn được xác định là một bộ phận quan
trọng trong chiến lược phát triển đất nước, một trong những vấn đề kinh tế- xã
hội hàng đầu của quốc gia, vì thế mà Đảng uỷ, UBND xã rất quan tâm tới công tác
Dân số- KHHGĐ nên trong những năm qua đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo thực
hiện công tác Dân số- KHHGĐ như:
Đảng uỷ đã quán triệt trong toàn đảng bộ Nghị quyết số 04-
NQ/HNTW ngày 14/01/1993 của Hội nghị lần thứ tư ban chấp hành trung ương Đảng
khoá VII và từ đó thành lập Ban Dân số- KHHGĐ xã và ban hành các Nghị quyết
chuyên đề về thực hiện công tác Dân số- KHHGĐ trong từng giai đoạn.
UBND xã đã ban hành các quyết định, kế hoạch và các công văn
triển khai công tác Dân số-KHHGĐ, chăm sóc Sức khỏe sinh sản, cùng nhiều văn
bản chỉ đạo công tác phối hợp với các ban ngành đoàn thể. Vì vậy, mà trong 20
năm qua công tác Dân số- KHHGĐ trên địa bàn xã Hưng Tây đã giành được nhiều kết
quả quan trọng và đạt được chỉ tiêu giảm sinh, mức sinh thay thế. Tuy nhiên,
với địa bàn là xã đông dân, có đường tránh Vinh và đường quốc lộ 46 đi qua nên
khả năng di dân vào địa bàn là rất lớn nên tỷ lệ sinh và sinh con thứ 3 trở lên
không có tính bền vững. Hưng Tây là xã có đông đồng bào theo đạo thiên chúa,
vấn đề trọng nam khinh nữ vẫn đang còn tồn tại trong nhận thức của nhân dân, vì
thế mà công tác tuyên truyền vận động thực hiện tốt chính sách Dân số- KHHGĐ
gặp rất nhiều khó khăn.
Năm 1993 Ban Dân số-KHHGĐ xã Hưng
Tây được thành lập theo Nghị Định số 42/CP, ngày 21/6/1993 của Chính phủ quy
định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn tổ chức bộ máy và lề lối làm việc của Uỷ
ban Quốc gia Dân số và kế hoạch hóa gia đình. Sau khi được thành lập, với sự
nhiệt tình của đội ngũ cán bộ làm công tác dân số và được sự quan tâm, chỉ đạo
của các cấp, sự phối hợp chặt chẽ của các ban ngành có liên quan nên công tác dân
số có được những chuyển biến rõ rệt. Thay đổi nhận thức của người dân trong
việc thực hiện sinh đẻ có kế hoạch và chất lượng cuộc sống được nâng lên. Cụ
thể là:
Năm 1993: Tổng nhân khẩu 6.758
người, số hộ 1.120, tổng sinh 164 cháu tỷ suất sinh 24,3%o; con thứ 3 trở lên
55 cháu chiếm 33,5%; Tỷ suất tăng dân số tự nhiên 6,75%o; số phụ nữ trong độ
tuổi sinh đẻ có chồng 1.321 người, sử dụng các BPTT hiện đại là 984 ca, trong đó đình sản 0 ca.
Năm 1997: Tổng nhân khẩu 7.032, số
hộ 1.213 ,tổng sinh 159, tỷ suất sinh 22,6 %o; Con thứ 3 trở lên 51 cháu chiếm
32%; Tỷ suất tăng dân số tự nhiên 6,0%o; số phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ 1.323
người, sử dụng BPTT hiện đại là 1105 ca, trong đó đình sản là 3 ca.
Năm 2000: Tổng nhân khẩu 7.543, số
hộ 1.536 tổng sinh 162 cháu, tỷ suất sinh 21,4 %o; Con thứ 3 trở lên 52 cháu
chiếm 32,1%; Tỷ suất tăng dân số tự nhiên 6,5%o; số phụ nữ trong độ tuổi sinh
đẻ có chồng là 1.435 người, sử dụng các BPTT hiện đại là 1.232 ca, trong đó
đình sản là 12 ca.
Năm 2003, thực hiện Nghị Định số
94/CP, ngày 11/11/2002 của Chính phủ quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
và cơ cấu tổ chức của Uỷ ban Dân số, Gia đình & Trẻ em. Ban Dân số-KHHGĐ xã
Hưng Tây được đổi thành Ban Dân số, Gia đình & Trẻ em.
Sau 10 năm công tác Dân số đã có
nhiều thay đổi: Tổng tỷ suất sinh 24,3%o năm 1993 đến năm 2000 còn 21,4%o, con thứ 3 trở lên 55 cháu chiếm 33,5% năm
1993 đến năm 2000 còn 32 %o, Tỷ suất tăng dân số tự nhiên 6,5%o;
Năm 2005: Tổng nhân khẩu là 9.836
tổng sinh 154 cháu, tỷ suất sinh 15,6%o; con thứ 3 trở lên 52 cháu chiếm 33,7 %,
Tỷ suất tăng dân số tự nhiên 8,8%o;
Năm 2006: Tổng nhân khẩu 10.485,
tổng sinh 154 cháu, tỷ suất sinh 14,7%o; con thứ 3 trở lên 51 cháu chiếm 33,1%,
Tỷ suất tăng dân số tự nhiên 9,5%o;
Năm 2007: Tổng nhân khẩu 9.980,
tổng sinh 166 cháu, tỷ suất sinh 16,6%o; con thứ 3 trở lên 44 cháu chiếm 26,5%,
Tỷ suất tăng dân số tự nhiên 8,9%o;
Đến năm 2008 Ban Dân số, Gia đình
& Trẻ em xã Hưng Tây được đổi thành Ban Dân số - Kế hoạch hoá gia đình, theo Thông tư 05/2008/TT-BYT, ngày 14/5/2008 Về việc hướng dẫn chức
năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức bộ máy Dân số-KHHGĐ ở địa phương.
Năm 2008: Tổng nhân khẩu 10.200, tổng hộ 2.551
tổng sinh 155 cháu, tỷ suất sinh 15,2%o; con thứ 3 trở lên 36 cháu chiếm 23,2%,
Tỷ suất tăng dân số tự nhiên 9,2%o;
Năm 2009: Tổng nhân khẩu 10.118,
tổng hộ 2.558 tổng sinh 124 cháu, tỷ suất sinh 12,2%o; con thứ 3 trở lên 27
cháu chiếm 21,7%, Tỷ suất tăng dân số tự nhiên 9,1%o;
Năm 2010: Tổng nhân khẩu 10.150,
tổng hộ 2.573, tổng sinh 91 cháu, tỷ suất sinh 8,9%o; con thứ 3 trở lên 23 cháu
chiếm 25,8%, Tỷ suất tăng dân số tự nhiên 9,1%o;
Năm 2011: Tổng nhân khẩu 9.840,
tổng sinh 132 cháu, tỷ suất sinh 13,4%o; con thứ 3 trở lên 22 cháu chiếm 16,6%,
Tỷ suất tăng dân số tự nhiên 8,8%o; Năm 2012 Tổng khẩu 9.746, số hộ 2.766, tổng
sinh 198 cháu, tỷ suất sinh 20,2%o; con thứ 3 trở lên 43 cháu chiếm 21,7%, Tỷ
suất tăng dân số tự nhiên 8,7%o;
9 tháng đầu năm 2013 toàn xã có: 2.828 hộ và 10.074 nhân khẩu, tổng sinh 134 cháu, giảm 10 cháu so cùng kỳ
2012; con thứ 3 trở lên 23 cháu giảm 5 cháu so cùng kỳ 2012
Đến nay, năm 2013 công tác Dân số-KHHGĐ đã dần ổn định công
tác vận động ký cam kết thực hiện Chính sách Dân số- KHHGĐ theo Quyết định
76/2012 của UBND tỉnh Nghệ An đạt 99,8%. Xử lý 85% các trường hợp vi phạm Chính sách Dân số-KHHGĐ.
Mô hình gia đình nhỏ có 1 đến 2
con được người dân thực hiện một cách tự nguyện, đời sống nhân dân ngày càng
được nâng cao, góp phần xoá đói, giảm nghèo tiến tới thực hiện tốt các tiêu chí
xây dựng nông thôn mới. Qua hơn 20 năm triển khai công tác Dân số- KHHGĐ trên
địa bàn xã đã có nhiều kết quả đáng phấn khởi, tỷ lệ sinh và sinh con thứ 3 trở
lên giảm rõ rệt từ tỷ suất sinh 24,3%o năm 1993 đến nay chỉ còn 20,3%o, tỷ lệ
sinh con thứ 3 trở lên năm 1993 là 33,5% nay còn 21,7%, Tỷ suất sinh đặc trưng
năm 1993 là 4,3 con/phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ nay chỉ còn 2,3 con/ phụ nữ, không
có trường hợp sinh con thứ 6, 7. Tuy nhiên, những con số nói trên cũng còn cho
thấy công tác Dân số-KHHGĐ trên địa bàn xã đang còn nhiều thách thức , khó khăn
mà trong thời gian tới đòi hỏi cấp ủy, chính quyền, các tổ chức đoàn thể phải
quan tâm trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện.
IV. Về tổ chức bộ máy làm công tác Dân
số-KHHGĐ ở xã
Năm 1993 Ban Dân số-KHHGĐ xã Hưng
Tây được thành lập theo Nghị Định số 42/CP, ngày 21/61993 của Chính phủ quy
định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn tổ chức bộ máy và lề lối làm việc của Uỷ
ban Quốc gia Dân số và kế hoạch hóa gia đình. Do ông Nguyễn Văn Thắng- Chủ tịch
UBND xã làm Trưởng Ban, ông Nguyễn Văn Vinh làm cán bộ chuyên trách Dân số-KHHGĐ, các ông, bà trưởng các ban ngành, đoàn thể có liên quan làm
thành viên và mạng lưới cộng tác viên của 26 xóm, nhưng mới chỉ có 10
Cộng tác viên
Đến năm 2002 thực
hiện Nghị Định số 94/CP, ngày 11/11/2002 của Chính phủ quy định về chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Uỷ ban Dân số, Gia đình & Trẻ em.
Ban Dân số-KHHGĐ xã Hưng Tây được đổi thành Ban Dân số, Gia đình & Trẻ em.
Do ông Nguyễn Văn Vân- Chủ tịch UBND xã làm Trưởng Ban, Ông Trần Văn Bình làm
cán bộ chuyên trách Dân số-KHHGĐ lúc này mạng lưới Cộng
tác viên đã đủ mỗi xóm 1 người, tổng 26 người.
Đến năm 2005 Ban Dân số- KHHGĐ xã Hưng Tây
do Ông Trần Văn Hiển- Phó chủ tịch UBND xã làm Trưởng ban, Bà Võ Thị Ngà làm
cán bộ chuyên trách Dân số, Gia đình & Trẻ em.
Và đến năm 2008 Ban Dân số, Gia
đình & Trẻ em xã Hưng Tây được đổi thành Ban Dân số - Kế hoạch hoá gia đình, theo Thông tư 05/2008/TT-BYT, ngày 14/5/2008 Về việc hướng dẫn chức
năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức bộ máy Dân số-KHHGĐ ở địa phương. Do ông Trần
Văn Hiển- Phó chủ tịch UBND xã làm Trưởng Ban, bà Võ Thị Ngà làm cán bộ chuyên
trách Dân số-KHHGĐ, các ông, bà trưởng
các ban ngành, đoàn thể có liên quan làm thành viên và mạng lưới cộng tác viên
của 26 xóm.
Ban chỉ đạo thực hiện công tác Dân số - Kế hoạch hoá gia đình xã Hưng Tây do các thành viên
thuyên chuyển công tác nên cũng có sự thay đổi. Từ năm 2012 đến nay, Ban chỉ
đạo thực hiện công tác Dân số- KHHGĐ xã
Hưng Tây gồm các ông bà sau:
TT
|
Họ
và tên
|
Chức
vụ
|
Nhiệm
vụ
|
1
|
Trần Văn Hiển
|
Phó Chủ tịch UBND xã
|
Trưởng ban
|
2
|
NguyễnQuang Vinh
|
Trạm trưởng Trạm y tế
|
Phó ban
|
3
|
Võ Thị Ngà
|
CBChuyên trách DS-KHHGĐ
|
Phó ban trực
|
4
|
Nguyễn Đình
Thành
|
Cán bộ Tư pháp - Hộ Tịch
|
Ban viên
|
5
|
Đức Minh Hường
|
Chủ tịch Hội CCB
|
Ban viên
|
6
|
Đặng Xuân Khiêm
|
Chủ tịch MTTQ
|
Ban viên
|
7
|
Phan THị THuý
|
BTđoàn kiêm văn hoá
|
Ban viên
|
8
|
Đặng Thu Trang
|
CB Tài chính
|
Ban viên
|
9
|
Phan Văn Lâm
|
Văn phòng – Thống kê
|
Ban viên
|
10
|
Cao Minh Lực
|
Trưởng công an
|
Ban viên
|
11
|
Nguyễn Văn Huynh
|
Chủ tịch
|
Ban viên
|
12
|
Nguyễn Thị Hương
|
Chủ tịch Hội LH
PN
|
Ban viên
|
Cán bộ chuyên trách Dân số - Kế hoạch hoá gia đình qua các thời kỳ:
Năm 1993 – 1996: Ông
Nguyễn Văn Vinh
Năm 1996 – 1998: Bà
Hoàng Thị Hảo
Năm 1998- 2005: Ông Trần Văn Bình
Năm 2005 - Nay: Bà
Võ Thị Ngà
Thực hiện Quyết định số 77/2012/QĐ-UBND, ngày 19/10/2012 của
Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An về việc bố trí cán bộ chuyên trách dân số - kế
hoạch hóa gia đình xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh Nghệ An, hiện nay
chuyên trách Dân số-KHHGĐ đang hoàn thiện chuẩn đào tạo về chuyên môn để được
tuyển dụng thành viên chức Dân số-KHHGĐ vào tháng 12 năm 2013
Ở các xóm, Hưng Tây có 26 cộng tác viên/26 xóm. Các cộng tác
viên năng nổ nhiệt tình và đầy trách nhiệm được tập huấn nghiệp vụ và tập huấn
bảng kiểm viên uống tránh thai và tham gia đầy đủ các lớp tập huấn do cấp trên
tổ chức. Các cộng tác viên theo thời gian cũng có sự thay đổi, người làm Cộng
tác viên Dân số-KHHGĐ lâu năm nhất là 18 năm, người làm ít năm nhất là 1 năm.
V. Thành tích khen thưởng
1, Thành tích khen thưởng của xã:
Năm 2000: Chủ tịch UBND Huyện Hưng Nguyên tặng giấy khen cho
nhân dân và cán bộ xã Hưng Tây Đã có nhiều thành tích xuất sắc trong công tác Dân số, Gia đình & trẻ em
Năm 2009: Chủ tịch UBND Huyện Hưng Nguyên tặng giấy khen cho
nhân dân và cán bộ xã Hưng Tây Đã có nhiều thành tích xuất sắc trong công tác Dân số-KHHGĐ
Năm 2010: Chủ tịch UBND Huyện Hưng Nguyên tặng giấy khen cho
nhân dân và cán bộ xã Hưng Tây Đã có nhiều thành tích xuất sắc trong công tác Dân số- KHHGĐ
Năm 2010: Chủ tịch UBND Huyện Hưng Nguyên tặng giấy khen
khen đã có nhiều thành tích trong công tác Dân số-KHHGĐ góp phần giảm nhanh tỷ
lệ sinh con thứ 3 trở lên 5
Năm 2012: Chủ tịch UBND Huyện tặng giấy khen Ban Dân số-KHHGĐ
xã Hưng Tây Đạt giải Nhất toàn đoàn Liên hoan Tuyên truyền viên Dân số năm 2012
và giải nhất màn chào hỏi trong liên hoan tuyên truyền viên Dân số
2, Thành tích khen thưởng của xóm :
Năm 2005: Chủ tịch UBND Huyện Hưng Nguyên tặng giấy khen cho
nhân dân và cán bộ xóm Hưng Thịnh 1 đạt 2 năm liên tục xóm không có người sinh
con thứ 3 trở lên.
Năm 2007: Chủ tịch UBND Huyện Hưng Nguyên tặng giấy khen cho
nhân dân và cán bộ xóm Phúc Điền 2 đạt 2 năm liên tục xóm không có người sinh
con thứ 3 trở lên.
Năm 2007: Chủ tịch UBND Huyện Hưng Nguyên tặng giấy khen cho
nhân dân và cán bộ xóm Lam Đồng đạt 2 năm liên tục xóm không có người sinh con
thứ 3 trở lên.
Năm 2007: Chủ tịch UBND Huyện Hưng Nguyên tặng giấy khen cho
nhân dân và cán bộ xóm đạt 2 năm liên tục xóm Đại Huệ 1 không có người sinh con thứ 3 trở lên.
Năm 2007: Chủ tịch UBND Huyện Hưng Nguyên tặng giấy khen cho
nhân dân và cán bộ xóm Bắc Phúc Hoà đạt
2 năm liên tục xóm không có người sinh con thứ 3 trở lên.
Năm 2008: Chủ tịch UBND Huyện Hưng Nguyên tặng giấy khen cho
nhân dân và cán bộ xóm Thượng Khê 3 đạt 2 năm liên tục xóm không có người sinh
con thứ 3 trở lên.
Năm 2009, 2011: Chủ
tịch UBND Huyện Hưng Nguyên tặng giấy khen cho nhân dân và cán bộ xóm Khoa Đà 2
đạt 2 năm liên tục xóm không có người sinh con thứ 3 trở lên.
Năm 2009, 2011: Chủ tịch UBND Huyện Hưng Nguyên tặng giấy khen
cho nhân dân và cán bộ xóm Khoa Đà 1 đạt 2 năm liên tục xóm không có người sinh
con thứ 3 trở lên.
Năm 2010: Chủ tịch UBND Huyện Hưng Nguyên tặng giấy khen cho
nhân dân và cán bộ xóm Khoa Đà 3 đạt 2 năm liên tục xóm không có người sinh con
thứ 3 trở lên.
Năm 2011: Chủ tịch UBND Huyện Hưng Nguyên tặng giấy khen cho
nhân dân và cán bộ xóm Đại Đồng đạt 2
năm liên tục xóm không có người sinh con thứ 3 trở lên.
Năm 2012: Chủ tịch UBND Huyện Hưng Nguyên tặng giấy khen cho
nhân dân và cán bộ xóm Phúc Điền 1 đạt 2 năm liên tục xóm không có người sinh
con thứ 3 trở lên.
Năm 2012: Chủ tịch UBND Huyện Hưng Nguyên tặng giấy khen cho
nhân dân và cán bộ xóm Bắc Kẻ Gai 1 đạt 2 năm liên tục xóm không có người sinh
con thứ 3 trở lên.
Dưới sự lãnh đạo,chỉ đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền; sự
phối hợp đồng bộ thường xuyên của các ban ngành, đoàn thể trong hệ thống chính
trị xã-hội, sự nỗ lực không mệt mỏi của đội ngũ cán bộ chuyên trách Dân
số-KHHGĐ từ xã đến xóm, cùng với ý thức tự giác của đại bộ phận nhân dân, công
tác Dân số-KHHGĐ trên địa bàn xã đã đạt
được những kết quả tích cực và nổi bật, góp phần không nhỏ vào công cuộc phát
triển kinh tế-xã hội của địa phương.
Nguồn
của BCĐ thực hiện công tác Dân số - KHHGĐ xã Hưng Tây